“Tại sao bà lại chọn ông thế?”
“Ta cũng không biết nữa, chỉ là… lúc đó thì còn ai khác ngoài ông ấy đâu!”
Đó là khi trong nhà cúp điện, nhà lợp mái tôn không có lao phong nên nóng hầm hập, tôi và bà ngoại kéo ghế mây ra sân ngồi tỉ tê trò chuyện.
Bà ngồi yên tĩnh trên ghế, hai chân khép chặt, còn tôi áp má vào đùi bà, hưởng thụ làn gió mát mẻ bà quạt tay cho. Mẹ tôi ở trong nhà nói vọng ra khoảng nửa buổi thì có điện, bà tôi phủi phủi tay: “Không sao đâu, trời không nóng lắm, để mẹ ngoài này một chút.”
Mấy hôm nay, công ty điện lực phát thanh vào buổi sáng nói rằng từng khu vực trong thành phố sẽ luân phiên ngưng cung cấp điện trong ngày để công ty tiến hành sửa chữa đường dây. Tôi tưởng tượng những người thợ sửa điện trèo lên trên cái trụ bê tông, xung quanh người giắt bao nhiêu là dụng cụ chuyên dụng, mồ hôi nhễ nhại lăn tràn trên khuôn mặt. Đó là một công việc vất vả và cần nhiều sự kiên nhẫn.
“Sửa chữa thứ gì cũng đều như thế cả, không thể nóng vội được.”
Dạo gần đây, bà ngoại hay nói với tôi những điều như thế. Tôi mỉm cười, đi vào trong nhà pha một ly nước chanh, dùng mật ong làm ngọt thay cho đường, lấy thêm một cái quạt mo đi đến chỗ bà ngồi. Bà đang nhìn thư lữ vào khoảng không trước mặt, miệng lẩm bẩm điều gì đó. Tôi đoán bà đang cố nhớ lại một đoạn cải lương nào đó bà đã từng nghe trước đây.
Tôi đặt ly nước chanh vào lòng bàn tay bà, rồi phe phẩy cái quạt mo phía sau tấm lưng áo đang bết sát vào da bà. Tôi muốn bà biết được tôi đã sẵn sàng nghe bà kể chuyện. Mặc dù tôi còn trẻ chán, nhưng tôi phát ngấy lên khi suốt ngày, từ trường học cho đến chỗ làm thêm, đi đâu cũng nghe người ta ca than, những khuôn mặt bủng beo, những cái nhăn mặt, những câu chửi thề. Người ta thấy bất bình đối với mọi chuyện. Người ta không hài lòng về ai hết. Người ta kêu khổ, rồi người ta uất ức vì không ai hiểu được nổi khổ của mình, người ta chửi lên cho bớt tức. Mà chửi xong lại thấy khổ càng thêm khổ. Khổ thân mình buồn lòng, khổ thân người nghe vô tội.
Tôi được một tuần nghỉ trọn vẹn vì nhà trường tổ chức ăn mừng tròn một trăm năm thành lập trường. Ngay khi thông báo nghỉ học được đăng tải trên trang cá nhân của trường, tôi nhanh chóng thu xếp hành lý trở về nhà. Chưa bao giờ một đứa trẻ ham thích bay nhảy như tôi lại muốn ngay lập tức sà vào lòng bà ngoại như thế. Tôi cần bà ngay lúc này, bởi thành phố xô bồ ngoài kia sắp quật ngã tôi rồi.
Mẹ tôi bảo thế là tốt, tôi dù sao vẫn còn nhiều thời gian, nhưng bà ngoại thì không thế. Mẹ nói sẽ đau lòng lắm nếu một ngày nào đó, giả dụ bà đang hấp hối bên giường bệnh chờ gặp đứa cháu gái duy nhất của gia đình để nói lời từ biệt, thì tôi lại đang lang thang ở xó xỉnh nào đó, tụ tập bạn bè ăn chơi, như thế thì quá bất hiếu. Cho nên trước khi cái ngày không muốn nhắc đến đó xảy ra, tôi nhất định phải ở gần bà.
Chiều chiều, tôi dìu bà ngồi trên chiếc xe lăn, thong thả đẩy bà ra bờ hồ gần đó hóng mát. Tôi bắt gặp rất nhiều bác hàng xóm sống gần nhà ngoại tôi, họ dẫn cháu ra bờ hồ thả thuyền giấy hoặc cho bồ câu ăn. Họ nhìn thấy tôi, mỉm cười hiền hậu. Tôi gật đầu đáp lại, khoảng cách thế hệ khiến chúng tôi không nói được gì nhiều với nhau. Tôi đẩy bà ngoại đến bên một gốc cây có tán xoè rộng. Vài chú bồ câu bay lân la đến tìm thức ăn. Tiếc rằng tôi không mang theo bánh mì hay chuối cho chúng. Quanh đó, tôi nghe tiếng những đứa trẻ tíu tít đánh đố nhau xem tại sao những con vịt bơi dưới hồ tại sao lại biết bay. Một cậu bé hét lên đắc thắng: “Tớ biết rồi, đấy là một loài chim biết bơi.”
Những đứa còn lại không đồng tình, lè lưỡi giễu cợt cậu bé bị hâm. Riêng tôi và bà ngoại thì thích thú quan sát “cuộc tranh luận” nghiêm túc của bọn trẻ.
“Cháu không cần ngày nào cũng ở cạnh ta. Ra ngoài chơi với bạn bè đi.”
Tôi biết là mình không có nhiệm vụ phải ở sát bên cạnh bà ngoại hai mươi bốn trên bảy, nhưng đây là việc tôi tự nguyện. Mẹ và dì tôi nói sẽ cho tôi thêm chút tiền tiêu vặt nếu tôi giúp họ trông bà ngoại trong khi cả gia đình đi leo núi. Không biết từ lúc nào, những người thân của bà đã bắt đầu xem bà là một gánh nặng. Khi tôi hỏi vậy những lúc khác thì sao, ai đã trông nom bà khi tôi không có ở đây? Mọi người cúi mặt không nói gì. Tôi lắc đầu. Tôi từ chối nhận tiền của mẹ và dì, tôi bảo tôi sẽ làm việc đó như bổn phận nên làm của một đứa cháu. Mặc dù, tiền thì có đứa sinh viên nào như tôi không muốn.
“Không hiểu sao gần đây ta lại mơ thấy ông ấy.” – Bà vừa nói vừa xoa xoa chiếc vòng cẩm thạch màu lam đeo bên cổ tay trái – “Cháu nhìn thử xem, nó bắt đầu có gân nước rồi này. Ông ấy tặng ta trong một lần đi xe hàng về đỗ tại bến, lúc đó ta bán đậu phộng cho xe khách, ông ấy dúi vào túi áo của ta, cười cười nói ông mua được của một bà bán đồ Xiêm ở gần biên giới. Dù sau này, mẹ và các dì cháu mua cho ta rất nhiều đồ nữ trang quý giá, nhưng đối với người già như ta mà nói, chiếc vòng cẩm thạch này đã đủ lắm rồi!”
Từ ngày ông ngoại mất đến nay, đã lâu rồi tôi mới nghe bà ngoại nhắc về ông. Bà nhấc tay ra khỏi tay cầm xe lăn, xoa xoa hai lòng bàn tay vào nhau. Tôi cúi xuống hỏi bà có lạnh không? Chúng ta về nhà chứ? Bà lắc đầu. Tôi đẩy bà vào sâu trong công viên để tránh gió, đồng thời cởi áo khoác choàng ngang người bà.
Tôi ngồi lên băng đá, đối diện với bà ngoại, người mà luôn giấu tôi vào sau lưng mỗi khi tôi bị mẹ đánh đòn vì nghịch phá ngày còn bé, bà cũng là người đầu tiên khen mái tóc bông xù của tôi sao mà xinh xắn thế. Khi còn nhỏ, tôi thích nhất là nép vào vai bà mỗi khi bà ngồi may quần áo cho tôi trên tấm phản tre, tay tôi sẽ mân mê những ngấn mỡ mềm mại ở bụng bà. Người phụ nữ luôn ra sức can ngăn mỗi khi tôi có ý định cắt tóc ngắn, bà có quan niệm cho rằng đàn ông và đàn bà khác nhau ở chỗ mái tóc. Cho đến bây giờ, mỗi khi được ở cạnh bà, tôi vẫn luôn cố hiểu những thông điệp mà người phụ nữ gần đất xa trời này muốn truyền đến tôi.
“Dù trời đang nổi gió, thì ta vẫn ngửi thấy mùi ngai ngái cơ thể của ta. Cháu có để ý không, nó cứ váng vấp quanh đây.” – Bà nhăn mặt nói.
“Nó không nghiêm trọng đến thế đâu ạ!” – Tôi nắm lấy đôi bàn tay nhăn nheo nổi đầy gân xanh đỏ của bà, xoa nhè nhẹ lên mu bàn tay.
Tôi thừa nhận bà ngoại có mùi hương này. Trong phòng bà, ở kệ trang điểm có hàng loạt các loại nước hoa với mùi hương nặng nhất có thể. Tôi cá bà dùng chúng cho việc che lắp “mùi hương người già” của mình. Nhưng nhờ có nó, tôi mới yên tâm là bà vẫn còn hiện diện xung quanh tôi.
“Ta định nói gì ấy nhỉ? Cháu có biết không, ta định nói gì ấy nhỉ?”
Bà ngoại cứ lặp đi lặp lại câu hỏi. Tôi nghĩ bà đang hoảng sợ, đã nhiều lần rồi, mỗi khi tôi có linh cảm bà sẽ kể chuyện gì đó thì dám chắc chỉ một lúc sau thôi bà sẽ quên béng đi việc đó. Tôi nhìn bà thấu hiểu. Tuổi già không phải là lỗi của bà, đó là việc của thời gian. Tôi đẩy bà trở về, cuộc dạo chơi buổi chiều kết thúc như thế đấy.
Có đôi lần mẹ bảo tôi vào đánh thức bà ngoại trước giờ ăn tối. Tôi đẩy cửa phòng bước vào, bà đang nằm ngủ trên chiếc giường lót nệm nước, trải phía trên là một tấm ga màu tím sậm. Bà xõa tóc ngược lên phía trên, mặc một chiếc váy màu da dài chấm đầu gối. Bà nằm đó, bình yên và thư thái. Bỗng tôi giật mình hoảng sợ, tôi chạy ngay đến bên mép giường, giơ ngón tay trỏ đặt ngang mũi bà. Hơi thở đều đều và chậm rãi của bà khiến tôi trấn tỉnh trở lại.
Từng có biết bao nhà văn, dùng chính ngòi bút của mình dễ dàng vẽ lên bức chân dung về những người phụ nữ sắc nước hương trời. Nhưng một nhà văn lỗi lạc, là người có thể hiểu thấu được sự nhàu nhĩ mà thời gian đã giày vò cơ thể của người phụ nữ, yêu thương và thất vọng, sinh nở và mất đi, cuộc sống đã bạo ngược không chút thương sót khi tước đi ước mơ thiếu nữ của họ và đẩy họ lao nhanh về phía trước, đến khi cái chết cận kề trước mặt, mà nhà văn đó vẫn có khả năng tái hiện vẻ đẹp thanh thuần của họ vào những năm đôi mươi, thế mới là đại tài.
Tôi tự hỏi sẽ tìm đâu ra người “họa sĩ” có thể vẽ lại bức chân của bà ngoại bây giờ bằng giấy trắng mực đen.
Sáng nay, tôi nhìn thấy bà ngoại ở trong vườn. Bà đang dùng sức đẩy hai bánh xe lăn di chuyển, nhưng vô dụng, trong vườn là đất cát, có thể bánh xe đã bị lún. Tôi nghiêng đầu mỉm cười, chạy thật nhanh đến giải cứu bà. Bà ngoại ngước mắt lên nhìn tôi, không nói gì, chỉ chậm rãi lắc đầu. Ánh mắt của bà thể hiện chút gì đó bất lực. Khi nhìn những ngày tháng oai phong đi qua, đến lúc tuổi già phải chịu sự giám sát của người khác như một đứa nhóc thường xuyên gây chuyện, tôi nghĩ bà ngoại đang thất vọng về bản thân mình lắm.
Bà ngoại vuốt ngực hít một hơi thật sâu. Ngay dưới ánh nắng mặt trời chói chang, soi rõ từng đường nếp trên khuôn mặt bà. Càng nhìn thì tôi lại càng sợ. Tôi chỉ sợ rằng, đợi đến lúc tôi trưởng thành rồi, thì đối với bà ngoại… sẽ không kịp nữa.
“Cháu hôm nay không cần đến trường sao?”
Tôi lắc đầu: “Cháu đang được nghỉ lễ.”
Tôi nhớ đã nói với bà hàng ngàn lần về chuyện này rồi.
“Cháu tuổi con gì hả?”
“Con rắn ạ. Sinh vào buổi tối – 8h30.”
Tôi trình bày đầy đủ.
“Ừ… ừ. Để xem, thế năm nay mười chín rồi hả? Lớn rồi, trổ mả rồi!”
Bà nhìn tôi cười mãn nguyện.
“Mẹ nói nhìn hình bà ngày trẻ với cháu bây giờ giống nhau y đúc luôn ạ!”
Bà ngoại cười lớn: “Để xem, cái mũi này, đuôi mắt này, khuôn miệng này… Đúng là giống thật.”
“Nhưng cháu còn trẻ đẹp, ngoại già rồi…” – Bà buông lơi câu nói.
Bà ngoại chắc đang suy tư về lời nói vừa rồi. Bà giống một ngọn nến đang cháy. Ban đầu là một cây nến thanh mảnh, đỏ rực đầy kiêu hãnh, dần dần trở nên xù xì thô ráp bởi lớp sáp chảy xuống, cứ thế theo năm tháng, thấp dần thấp dần, cho đến khi tim nến cháy hết thì lụi tàn. Nhưng có điều tôi dám chắc, trong khoảng thời gian ngọn lửa trong bà bừng cháy mãnh liệt nhất, nó có ý nghĩa hơn tôi nhiều, nên khoảng thời gian còn lại của tôi chính là học cách sống sao cho tỏa sáng như bà.
“Cháu đang học gì ở trường thế hả?” – Bà ngoại bất ngờ đổi chủ đề.
“Đang tập tành trở thành một đại thi hào đấy ạ.”
“Nói nghe ghê thế. Có biết Vũ Trọng Phụng không? Đấy, cứ được như ông ấy thì hãy nói.”
Tôi bĩu môi: “Nếu hơn được thế gì sao ạ?”
“Chẳng có mấy ai học được thói châm biếm tuyệt hảo như ông ấy đâu. Nghe sơ qua như đang rót mật vào tai, nhìn kĩ vào thì mới vỡ lẽ. Đó là thứ giúp ông ấy khác biệt tất cả những nhà văn còn lại.”
Tôi chờ đợi bà tiếp tục. Có lẽ tuổi già khiến khả năng ngôn ngữ của bà bị hạn chế, bà ngoại luôn mất rất nhiều thời gian để nói về một việc gì đó. Cuối cùng thì bộ phim quay chậm của bà ngoại cũng bắt đầu phân cảnh đầu tiên.
Bà ngoại xiết chặt hai bàn tay vào nhau. Đây có thể là câu chuyện cần rất nhiều dũng khí để nói ra.
“Ta gặp ông ấy lần đầu năm ta mười sáu tuổi, còn ông ấy vẫn là một cậu bé vừa chập chững đến tuổi trưởng thành. Ngày xưa ấy, nam nữ gặp nhau chẳng bao giờ là chuyện ngẫu nhiên hay do duyên số, chúng đều là sự sắp đặt. Chỉ một đêm sau khi ngủ dậy, ta biết rằng mình sắp phải lấy chồng.
Ta khi đó cũng giống như bao thiếu nữ khác, ta cũng có người mình thầm để mắt đến. Ta còn có giấc mơ của riêng mình, ta muốn trở thành một cô giáo tiểu học.”
Hình ảnh bà ngoại mặc áo dài lụa, tay cầm thước kẻ, ê a giảng bài trên bục giảng, khuôn mặt bà nghiêng nghiêng bên ô cửa sổ khi chấm bài cho học sinh, mỉm cười một mình vì những trò nghịch phá táo tợn của đám học trò hiện ra trước mắt tôi.
“Ông cố con – là cha của ta, định đoạt cuộc hôn nhân này từ khi ta và ông ấy chưa lọt lòng. Đó là một lời hứa danh dự bí ẩn của những người đàn ông trong gia đình, chẳng ai biết đến việc này, ngay cả mẹ ta. Cháu biết đó, đàn ông ngày nay hay vào thời xưa, đều được xem như trụ cột gia đình, lời nói luôn có trọng lượng hơn bất kì ai. Cho nên khi hôn sự này định đoạt, ta chẳng thể nào làm khác đi được.”
Tôi bắt đầu nhìn sâu vào mắt bà ngoại, con ngươi đã đục màu, còn tròng đen bắt đầu chuyển sang màu xanh lục. Hình ảnh tôi phản chiếu qua đôi mắt bà, chập chờn và mơ hồ, giống như những mảng kí ức về câu chuyện bà đang kể dần dần chấp nối lại với nhau.
“Cha ta chỉ nói với ta rằng đây là người đàn ông phù hợp nhất mà ông đã cất công chọn lựa, theo những tiêu chuẩn riêng của ông ấy. Và ta đã tin ông ấy, tin rằng người cha đáng kính của mình thật sự muốn mang điều tốt đẹp nhất trên đời dành tặng cho ta.
Ta có phần yếu đuối và ngu muội phải không? Tại sao lúc đó ta không hề mảy may có chút phản ứng gì? Tại sao ta lại chấp nhận cuộc hôn nhân đường đột này dễ dàng như ăn một viên kẹo mía vậy chứ?
Ông ngoại con không an phận giống như ta, ông ấy phản ứng kịch liệt, thậm chí còn thề trước mắt gia đình ta trong buổi ra mắt hai bên rằng, nếu ta và ông ấy lấy nhau, thì đêm tân hôn ông ấy sẽ treo cổ tự tử. Đó là một cái tát mạnh vào lòng tự trong của một cô bé như ta. Niềm kiêu hãnh bị tổn thương, ta lần đầu tiên biết hận thù là thế nào. Ta cũng buông lời thề, nếu ta và ông ấy có trở thành vợ chồng thực sự, sẽ ly biệt suốt đời.”
“Sau đó thì sao ạ?” – Tôi không kìm chế được, buột miệng nói.
“Hôn sự được hoãn lại, vì mẹ ta hết lời năn nỉ, nói ta còn hai đứa còn nhỏ, để chúng ta có công ăn việc làm ổn định, rồi lấy nhau sau cũng được. Thật ra là bởi bà thương ta, không muốn ta tuổi còn nhỏ mà phải chịu khổ.
Ta được gửi đi học nghề may ở một huyện xa nhà. Ta đi xa để quên đi sự hổ thẹn đó. Ta không muốn gặp lại gia đình và người đàn ông đó. Một cánh ngu ngốc, ta đã nguyền rủa ông ấy sẽ chết quách ở xó xỉnh nào đó cho rồi.
Ở gần nơi ta làm việc lúc đó có một kho thóc rất lớn của chính quyền, xe hàng tấp nập vào ra, nhân công thì lên đến hàng trăm người. Đám thợ chính của xưởng may có thiện cảm với mấy anh bóc vác hàng bên kho thóc, chúng ta còn thường xuyên rủ nhau đi ăn chè. Tuy thân thiết nhưng luôn giữ gìn kín kẽ, chưa từng có chuyện nào vượt ranh giới bạn bè. Vậy mà…”
Bà ngoại hít một hơi sâu, bà chớp mắt, một giọt nước trong vắt nóng hổi rơi xuống nơi khóe mắt trũng sâu. Bà ngoại… đã lâu như vậy, nhưng bà vẫn đau lòng lắm đúng không?
“Năm đó chiến trận liên miên, đàn ông đến tuổi đều được gọi đi nghĩa vụ. Đa số đều sợ chết mà trốn đi, kho thóc và xưởng may đều đóng cửa vì bom đạn. Duy chỉ có một người, ông ấy không những không rời đi, còn tự nguyện ra trận. Đêm trước ngày chia tay, ông ấy đến nhà trọ ta đang ở, đưa vội cho ta một miếng thiếc trên đó có tên ta và ông ấy, xỏ một sợi cước vàng vào lổ tròn khoét sẵn, đeo vào cổ ta. Ông ấy nói ông ấy muốn làm một người đàn ông dũng cảm, bởi chỉ có như vậy mới xứng với ta. Ta vào giây phút đó, thay vì vui mừng nhảy cẩng lên, trong lòng lại trào dâng sự lo sợ. Ông ấy ra trận là vì ta, để có được trái tim ta. Nhưng ta chẳng thể ngăn ông ấy lại, càng không thể nói ta sợ ông ấy một đi không trở lại, như thế là hủy hoại lòng tự trọng của ông ấy. Ta chỉ im lặng. Tay ta nắm chặt miếng thiếc, như nắm giữ sinh mệnh của ông ấy.”
“Vậy trước đó, bà có biết ông ấy để ý đến bà không ạ?” – Tôi vội vàng tiếp lời.
Bà ngoại ngẫm nghĩ: “Ta không rõ. Ông ấy chưa từng nói điều gì về tình yêu với ta. Ta còn nhớ khi ta vừa mới đến làm ở xưởng may, không có mấy người ưa thích ta, nhất là đám thợ nữ. Họ nghĩ ta là con nhà giàu có, nghĩ ta kênh kiệu, nghĩ ta vô dụng nên bị gia đình tống đi. Ta thường lang thang một mình sau giờ làm, thỉnh thoảng đi ngang qua kho thóc và bị đám thanh niên ở kho thóc trêu chọc, họ thậm chí còn hất vỏ trấu vào người ta, tất cả cười rộ lên trông thật biến thái, chỉ có ông ấy là không. Ông ấy không phản ứng gì, nhìn thoáng qua ta thật nhanh rồi lặp tức cúi đầu. Khi đó thay vì tức giận vì bị trêu chọc, ta bật cười bởi nét ngây ngô của chàng trai đó. Sau đó như ta đã kể, hai bên kho xưởng có qua lại, thế là ta và ông ấy trở thành bạn của nhau.
Có lần ta bị gói hàng rớt từ trên cao xuống trúng chân. Ta bị gãy chân. Thế mà sáng hôm sau đã thấy ông ấy ở trước cửa nhà trọ, mang theo một gào đựng cơm, khoác trên vai là một chiếc túi vải, đưa ra trước mặt ta một cặp nạng tre. Đó là món quà đâu tiên ông ấy tặng cho ta. Từ rất lâu rồi, ta mới cười vui vẻ đến thế.
Trong nhóm bạn lúc đó, đa số đều có đôi có cặp, bọn họ ghép đôi ta với nhiều chàng trai khác nhau, nhưng ta không vui vẻ gì với chuyện đó. Ta muốn chờ một người khác. Ta chờ mãi cho đến đêm hôm đó. Nghĩ thử lại, cũng không biết đó có phải gọi là tỏ tình không nữa!”
Nụ cười chua chát ẩn hiện trên khóe môi bà ngoại.
“Thời đó thông tin liên lạc không hiện đại như bây giờ, lại vào thời chiến trận, sau khi ông ấy ra trận, xưởng may lại đóng cửa, ta không còn cách nào chống chế nữa, đành trở về nhà. Dần dà thì nỗi nhớ mong cũng nguôi ngoai, nhưng ta biết cả đời này ta cũng không quên được người đàn ông đó. Ta biết, ta vẫn luôn chờ đợi, ta tin ông ấy sẽ bình an trở về.
Ta chăm chỉ phụ giúp gia đình buôn bán, vẫn là đứa con ngoan trong mắt cha mẹ. Ta không muốn phụ lòng họ, ta không muốn để họ biết ta đang đau lòng thế nào. Gia đình hoàn toàn không biết chuyện ta và ông ấy, nên họ vẫn nuôi hy vọng sẽ gả ta cho ông ngoại con. Gia đình không ngừng thúc giục, ta chỉ một mực im lặng. Thế rồi, ngày hôm đó một tiểu đoàn được nghỉ phép về thăm gia đình, trong đó có con của một người hàng xóm sát cạnh nhà. Cả gia đình ta đến thăm hỏi, cậu ta kể rất nhiều chuyện trong quân đội, về những trận đánh, về những người đồng đội ra trận, có người trở về chỉ còn một tay, có người mãi mãi nằm lại trên chiến trường.
Ta thu hết dũng khí hỏi về ông ấy, ta nói tên tuổi, cậu kia liền trợn trừng mắt, hỏi ta sao lại biết đến người này. Ta không nhớ nổi mình đã hỏi những gì, chỉ là cậu ta chỉ cúi đầu nhìn xuống chân, toàn thân cậu ta run lên. Ta lay người cậu ta, hỏi ông ấy ra sao rồi? Ông ấy có trở về không? Trong quân đội có phải chịu nhiều đau đớn không? Cậu ta lắc đầu: “Sẽ không còn nữa rồi.”
Cậu ta kể rằng một lần tiểu đoàn đi thám thính tình hình thì bị quân giặc tấn công bất ngờ, rất nhiều người bị thương và hy sinh. Ông ấy và quân chỉ huy cùng vài người nữa may mắn thoát chết, nhưng ông ấy lại bị thương nặng. Yêu cầu lúc đó là phải lập tức trở về nơi tập trung của binh đoàn. Đường hành quân còn xa, lương thực không còn nhiều, tình hình chiến trận đang rất nguy cấp, ông ấy tự nguyện hy sinh, một mình quay trở lại căn cứ của địch để đánh lạc hướng quân địch, giúp cho những người còn lại chạy thoát. Khi tất cả đã chạy được một quãng xa, họ nghe thấy một tiếng nổ kinh hoàng, một mảng rừng bốc cháy hừng hực. Họ nói ông ấy đã cắn chốt lựa đạn nhảy lao vào những tên giặc để cản đường chúng.
Ta ngước nhìn cậu ta, hỏi cậu ta có mệt không, trên đường về nhà đã chợp mắt lúc nào chưa? Cậu ta bật khóc nức nở, mọi người đều đau lòng, duy chỉ có ta không rơi nổi một giọt nước mắt. Có biết lúc đó ta cảm thấy thế nào không?”
“Bà ngoại…” – Tôi ngập ngừng.
“Ta không cảm thấy gì hết, trong lòng trống trơn. Rồi ta gục xuống sàn nhà, cha đỡ ta dậy, ông ôm ta vào lòng, ông bảo ta khóc đi, nhưng ta không khóc, ta chỉ biết mở to mắt nhìn mọi người. Ta vùng đứng dậy, ta đi trong vô định, cũng không biết mình muốn đi đâu. Sau đó, ta có mấy lần tìm đến nhà mẹ của ông ấy, ngôi nhà đơn chiếc, ộp ẹp nằm cạnh một dòng suối nhỏ, ta thấy trên bờ có một người đàn bà già nua, đang lúi cúi cắt cỏ, không biết để cho bò hay thỏ ăn. Ta muốn chạy đến ôm bà ấy mà khóc òa lên, muốn nói với bà ấy mọi chuyện, rằng người đàn ông chúng ta yêu thương nhất, sẽ không trở về nữa. Nhưng ta không dám, ta quay đầu bỏ chạy. Cháu nói xem, ta có hèn nhát không chứ?”
“Bà ngoại, bà dũng cảm lắm!”
“Khoảng thời gian sau đó, không lúc nào ta không nghĩ đến ông ấy. Ta vẫn luôn tưởng tượng, nếu ông ấy còn sống, chúng ta sẽ cùng nhau làm gì, cười nói thế nào. Sau đó, gia đình sợ ta sẽ u uất mà làm chuyện dại dột, một lần nữa hỏi ta về chuyện cưới hỏi. Ta lúc đó đã không còn sức lực để phản kháng, ta gật đầu đồng ý.”
“Người đó là ông ngoại con?” – Tôi ngờ vực.
“Không hiểu tại sao, sau ngần ấy năm trời, cuối cùng ta lại đi làm vợ người đã xua đuổi ta. Sau này, ta vẫn thường hỏi, tại sao ông lại chịu cưới tôi, trong khi ngày xưa thà chết cũng không? Ông ngoại con chỉ lắc đầu nói: “Tôi mệt rồi.”
Ông ngoại con là một người hiền lành, kiên nhẫn và thấu hiểu. Ông ấy vẫn tỏ ra vô thường trước những hành động so sánh ngầm của ta đối với ông ấy và người đàn ông kia. Ông ngoại con chưa từng nói ra, nhưng ta biết, ông ấy cũng đau lòng. Ta ghét cay ghét đắng vẻ mặt cam chịu của ông ngoại con, thà ông ấy mắng chửi ta, hay đánh ta cũng được, như vậy sẽ làm ta bớt đi vài phần cảm giác tội lỗi. Nhưng không, suốt mấy mươi năm trời, ông ngoại con vẫn luôn nhìn ta bằng ánh mắt thương cảm và chịu đựng. Điều đó giày vò ta, giày vò cuộc hôn nhân của chúng ta.”
“Ta cuối cùng không chịu nổi nữa, đã bỏ nhà đi. Ông ngoại con không đi tìm, không cố liên lạc với gia đình ta, ông ấy ở vậy nuôi mẹ và các dì con. Ta là một người mẹ xấu có phải không? Ta quá ích kỉ, ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, nghĩ đến người đàn ông trong lòng mình. Rồi ta kiệt quệ vì đau thương, nổi đau mấy mươi năm trời cuối cùng cũng liền sẹo. Ta dần sống lại, ta hạ thấp hình tượng vĩ đại của người đàn ông kia xuống, thấp đến mức khi mà ta nhắc về ông ấy, ta sẽ thôi không đau lòng nữa. Suốt bao nhiêu năm trời, ta hẹn hò ngoài hôn nhân, gian dối, xảo trá, rượu bia, cờ bạc, chỉ nhằm để quên đi người đàn ông đó, bởi ta tin bằng cách đó, ta có thể quên đi ông ấy. Đến khi ta quay trở về, ông ngoại con vẫn không nói gì, chỉ nắm tay ta, bảo ta nghỉ ngơi đi. Lúc đó ta ngỡ ngàng nhận ra, rốt cuộc người đàn ông đó chỉ nên là một món kỉ vật vô giá, cần được cất kĩ trong một chiếc tủ gỗ, để rồi ta phải thay vào vị trí của ông ấy một đồ vật mới.”
“Nghĩ kĩ lại thì, chuyện của ta cũng chẳng hề gì. Đó không phải là kiểu tình yêu khiến con có thể yêu đến mức điên cuồng, vì người đó mà bất chấp tất cả, chỉ đơn giản là muốn được bên cạnh nhau, cùng nhau trưởng thành. Ta và ông ấy, khi đó đều còn quá trẻ, đều ngu ngốc không hiểu gì về tình yêu, nhưng chúng ta tin tưởng rằng, cảm giác của bản thân dành cho người này, mãi mãi sẽ không thay đổi, tuyệt đối yêu thương và tin tưởng lẫn nhau.
Nếu ta bắt buộc phải quên đi những chuyện trước kia, ta chỉ xin giữ lại hình ảnh ông ấy đưa cặp nạn ra trước mặt ta, nghiêng đầu nói: “Chân cậu sẽ chóng lành thôi, đừng lo!”
Bà ngoại mấp mé đôi môi nứt nẻ, ánh mắt vừa sáng lên lại vội vụt tắt. Tôi không biết phải làm gì, có nên đến gần ôm lấy bà không?
“Cũng vì vậy, ta luôn mang cảm giác mắc nợ đối với ông ngoại con. Vào cái đêm ông ấy yếu đi, cả gia đình cùng túc trực bên giường bệnh, trên mặt ông ngoại con luồn rất nhiều loại ống khác nhau, cả bên hông người nữa. Ông ấy nở nặng nhọc. Ta biết ta sắp mất đi một người vô cùng quan trọng, nhưng ta không thể làm gì cho họ.Ta được các dì con đưa về nhà nghỉ ngơi, sáng sớm hôm sau, khi ta vừa giật mình thức dậy, mẹ con báo tin ông ngoại con vừa trút hơi thở cuối cùng. Cả hai lần ta mất đi người mình yêu thương nhất, ta đều không thể gặp mặt họ lần cuối, đó là cảm giác bất lực đến tê dại.
Nhưng điều khiến ta đau lòng nhất, cháu có biết là gì không? Lúc ta và các dì con đến bệnh viện, y tá đưa cho ta một thứ, cô ấy nói ông ngoại con đã nắm chặt nó trong lòng bàn tay tận đến lúc trút hơi thở cuối cùng: đó là miếng thiếc có khắc tên ta và người đàn ông kia. Mấy ngày trước đó ta đã lú lẫn đánh mất nó ở nơi nào đó trong nhà, ta phát điên lên và lục lọi khắp nơi, cuối cùng ông ngoại con kéo ta lại và nói nhất định sẽ tìm được cho ta. Ông ấy đã giữ đúng lời hứa. Nhưng sau này, sẽ không còn ai vì ta mà giữ lời hứa nữa, sẽ không bao giờ có được ai khác.”
Bà ngoại nhắm chặt mắt, những nếp nhăn trên mặt bà tụ về một điểm, càng làm rõ đường nét của tuổi già hơn bao giờ hết. Thời gian, chưa từng thôi hành hạ bà. Những giọt nước mắt không ngừng rơi xuống, không theo một đường thẳng mà chảy ngoằn ngoèo theo từng nếp gấp trên làn da bà.
Bà ngoại nắm lấy tay tôi lay nhẹ: “Ta làm cháu buồn rồi phải không? Đừng phiền lòng ta nhé?”
Tôi hạ thấp người cho bằng với bà ngoại, ôm bà bằng tất cả tình yêu và sự ngưỡng mộ mà tôi có. Bà ngoại đã sống rất dũng cảm, tôi tin chắc là vậy.
“Ngày mai bà lại kể chuyện cho cháu nghe nữa nhé? Còn bây giờ ta vào nhà thôi, nắng to rồi!”
“Vẫn còn muốn nghe sao?” – Bà cười hiền hậu, nụ cười rất giống cô bé mười tám tuổi trong tấm ảnh trắng đen treo ở phòng khách mà hằng ngày bà vẫn cẩn thận lau bụi.
“Tất nhiên rồi ạ” – Tôi nũng nịu trả lời.
“Ta cũng không biết nữa, chỉ là… lúc đó thì còn ai khác ngoài ông ấy đâu!”
Đó là khi trong nhà cúp điện, nhà lợp mái tôn không có lao phong nên nóng hầm hập, tôi và bà ngoại kéo ghế mây ra sân ngồi tỉ tê trò chuyện.
Bà ngồi yên tĩnh trên ghế, hai chân khép chặt, còn tôi áp má vào đùi bà, hưởng thụ làn gió mát mẻ bà quạt tay cho. Mẹ tôi ở trong nhà nói vọng ra khoảng nửa buổi thì có điện, bà tôi phủi phủi tay: “Không sao đâu, trời không nóng lắm, để mẹ ngoài này một chút.”
Mấy hôm nay, công ty điện lực phát thanh vào buổi sáng nói rằng từng khu vực trong thành phố sẽ luân phiên ngưng cung cấp điện trong ngày để công ty tiến hành sửa chữa đường dây. Tôi tưởng tượng những người thợ sửa điện trèo lên trên cái trụ bê tông, xung quanh người giắt bao nhiêu là dụng cụ chuyên dụng, mồ hôi nhễ nhại lăn tràn trên khuôn mặt. Đó là một công việc vất vả và cần nhiều sự kiên nhẫn.
“Sửa chữa thứ gì cũng đều như thế cả, không thể nóng vội được.”
Dạo gần đây, bà ngoại hay nói với tôi những điều như thế. Tôi mỉm cười, đi vào trong nhà pha một ly nước chanh, dùng mật ong làm ngọt thay cho đường, lấy thêm một cái quạt mo đi đến chỗ bà ngồi. Bà đang nhìn thư lữ vào khoảng không trước mặt, miệng lẩm bẩm điều gì đó. Tôi đoán bà đang cố nhớ lại một đoạn cải lương nào đó bà đã từng nghe trước đây.
Tôi đặt ly nước chanh vào lòng bàn tay bà, rồi phe phẩy cái quạt mo phía sau tấm lưng áo đang bết sát vào da bà. Tôi muốn bà biết được tôi đã sẵn sàng nghe bà kể chuyện. Mặc dù tôi còn trẻ chán, nhưng tôi phát ngấy lên khi suốt ngày, từ trường học cho đến chỗ làm thêm, đi đâu cũng nghe người ta ca than, những khuôn mặt bủng beo, những cái nhăn mặt, những câu chửi thề. Người ta thấy bất bình đối với mọi chuyện. Người ta không hài lòng về ai hết. Người ta kêu khổ, rồi người ta uất ức vì không ai hiểu được nổi khổ của mình, người ta chửi lên cho bớt tức. Mà chửi xong lại thấy khổ càng thêm khổ. Khổ thân mình buồn lòng, khổ thân người nghe vô tội.
Tôi được một tuần nghỉ trọn vẹn vì nhà trường tổ chức ăn mừng tròn một trăm năm thành lập trường. Ngay khi thông báo nghỉ học được đăng tải trên trang cá nhân của trường, tôi nhanh chóng thu xếp hành lý trở về nhà. Chưa bao giờ một đứa trẻ ham thích bay nhảy như tôi lại muốn ngay lập tức sà vào lòng bà ngoại như thế. Tôi cần bà ngay lúc này, bởi thành phố xô bồ ngoài kia sắp quật ngã tôi rồi.
Mẹ tôi bảo thế là tốt, tôi dù sao vẫn còn nhiều thời gian, nhưng bà ngoại thì không thế. Mẹ nói sẽ đau lòng lắm nếu một ngày nào đó, giả dụ bà đang hấp hối bên giường bệnh chờ gặp đứa cháu gái duy nhất của gia đình để nói lời từ biệt, thì tôi lại đang lang thang ở xó xỉnh nào đó, tụ tập bạn bè ăn chơi, như thế thì quá bất hiếu. Cho nên trước khi cái ngày không muốn nhắc đến đó xảy ra, tôi nhất định phải ở gần bà.
Chiều chiều, tôi dìu bà ngồi trên chiếc xe lăn, thong thả đẩy bà ra bờ hồ gần đó hóng mát. Tôi bắt gặp rất nhiều bác hàng xóm sống gần nhà ngoại tôi, họ dẫn cháu ra bờ hồ thả thuyền giấy hoặc cho bồ câu ăn. Họ nhìn thấy tôi, mỉm cười hiền hậu. Tôi gật đầu đáp lại, khoảng cách thế hệ khiến chúng tôi không nói được gì nhiều với nhau. Tôi đẩy bà ngoại đến bên một gốc cây có tán xoè rộng. Vài chú bồ câu bay lân la đến tìm thức ăn. Tiếc rằng tôi không mang theo bánh mì hay chuối cho chúng. Quanh đó, tôi nghe tiếng những đứa trẻ tíu tít đánh đố nhau xem tại sao những con vịt bơi dưới hồ tại sao lại biết bay. Một cậu bé hét lên đắc thắng: “Tớ biết rồi, đấy là một loài chim biết bơi.”
Những đứa còn lại không đồng tình, lè lưỡi giễu cợt cậu bé bị hâm. Riêng tôi và bà ngoại thì thích thú quan sát “cuộc tranh luận” nghiêm túc của bọn trẻ.
“Cháu không cần ngày nào cũng ở cạnh ta. Ra ngoài chơi với bạn bè đi.”
Tôi biết là mình không có nhiệm vụ phải ở sát bên cạnh bà ngoại hai mươi bốn trên bảy, nhưng đây là việc tôi tự nguyện. Mẹ và dì tôi nói sẽ cho tôi thêm chút tiền tiêu vặt nếu tôi giúp họ trông bà ngoại trong khi cả gia đình đi leo núi. Không biết từ lúc nào, những người thân của bà đã bắt đầu xem bà là một gánh nặng. Khi tôi hỏi vậy những lúc khác thì sao, ai đã trông nom bà khi tôi không có ở đây? Mọi người cúi mặt không nói gì. Tôi lắc đầu. Tôi từ chối nhận tiền của mẹ và dì, tôi bảo tôi sẽ làm việc đó như bổn phận nên làm của một đứa cháu. Mặc dù, tiền thì có đứa sinh viên nào như tôi không muốn.
“Không hiểu sao gần đây ta lại mơ thấy ông ấy.” – Bà vừa nói vừa xoa xoa chiếc vòng cẩm thạch màu lam đeo bên cổ tay trái – “Cháu nhìn thử xem, nó bắt đầu có gân nước rồi này. Ông ấy tặng ta trong một lần đi xe hàng về đỗ tại bến, lúc đó ta bán đậu phộng cho xe khách, ông ấy dúi vào túi áo của ta, cười cười nói ông mua được của một bà bán đồ Xiêm ở gần biên giới. Dù sau này, mẹ và các dì cháu mua cho ta rất nhiều đồ nữ trang quý giá, nhưng đối với người già như ta mà nói, chiếc vòng cẩm thạch này đã đủ lắm rồi!”
Từ ngày ông ngoại mất đến nay, đã lâu rồi tôi mới nghe bà ngoại nhắc về ông. Bà nhấc tay ra khỏi tay cầm xe lăn, xoa xoa hai lòng bàn tay vào nhau. Tôi cúi xuống hỏi bà có lạnh không? Chúng ta về nhà chứ? Bà lắc đầu. Tôi đẩy bà vào sâu trong công viên để tránh gió, đồng thời cởi áo khoác choàng ngang người bà.
Tôi ngồi lên băng đá, đối diện với bà ngoại, người mà luôn giấu tôi vào sau lưng mỗi khi tôi bị mẹ đánh đòn vì nghịch phá ngày còn bé, bà cũng là người đầu tiên khen mái tóc bông xù của tôi sao mà xinh xắn thế. Khi còn nhỏ, tôi thích nhất là nép vào vai bà mỗi khi bà ngồi may quần áo cho tôi trên tấm phản tre, tay tôi sẽ mân mê những ngấn mỡ mềm mại ở bụng bà. Người phụ nữ luôn ra sức can ngăn mỗi khi tôi có ý định cắt tóc ngắn, bà có quan niệm cho rằng đàn ông và đàn bà khác nhau ở chỗ mái tóc. Cho đến bây giờ, mỗi khi được ở cạnh bà, tôi vẫn luôn cố hiểu những thông điệp mà người phụ nữ gần đất xa trời này muốn truyền đến tôi.
“Dù trời đang nổi gió, thì ta vẫn ngửi thấy mùi ngai ngái cơ thể của ta. Cháu có để ý không, nó cứ váng vấp quanh đây.” – Bà nhăn mặt nói.
“Nó không nghiêm trọng đến thế đâu ạ!” – Tôi nắm lấy đôi bàn tay nhăn nheo nổi đầy gân xanh đỏ của bà, xoa nhè nhẹ lên mu bàn tay.
Tôi thừa nhận bà ngoại có mùi hương này. Trong phòng bà, ở kệ trang điểm có hàng loạt các loại nước hoa với mùi hương nặng nhất có thể. Tôi cá bà dùng chúng cho việc che lắp “mùi hương người già” của mình. Nhưng nhờ có nó, tôi mới yên tâm là bà vẫn còn hiện diện xung quanh tôi.
“Ta định nói gì ấy nhỉ? Cháu có biết không, ta định nói gì ấy nhỉ?”
Bà ngoại cứ lặp đi lặp lại câu hỏi. Tôi nghĩ bà đang hoảng sợ, đã nhiều lần rồi, mỗi khi tôi có linh cảm bà sẽ kể chuyện gì đó thì dám chắc chỉ một lúc sau thôi bà sẽ quên béng đi việc đó. Tôi nhìn bà thấu hiểu. Tuổi già không phải là lỗi của bà, đó là việc của thời gian. Tôi đẩy bà trở về, cuộc dạo chơi buổi chiều kết thúc như thế đấy.
Có đôi lần mẹ bảo tôi vào đánh thức bà ngoại trước giờ ăn tối. Tôi đẩy cửa phòng bước vào, bà đang nằm ngủ trên chiếc giường lót nệm nước, trải phía trên là một tấm ga màu tím sậm. Bà xõa tóc ngược lên phía trên, mặc một chiếc váy màu da dài chấm đầu gối. Bà nằm đó, bình yên và thư thái. Bỗng tôi giật mình hoảng sợ, tôi chạy ngay đến bên mép giường, giơ ngón tay trỏ đặt ngang mũi bà. Hơi thở đều đều và chậm rãi của bà khiến tôi trấn tỉnh trở lại.
Từng có biết bao nhà văn, dùng chính ngòi bút của mình dễ dàng vẽ lên bức chân dung về những người phụ nữ sắc nước hương trời. Nhưng một nhà văn lỗi lạc, là người có thể hiểu thấu được sự nhàu nhĩ mà thời gian đã giày vò cơ thể của người phụ nữ, yêu thương và thất vọng, sinh nở và mất đi, cuộc sống đã bạo ngược không chút thương sót khi tước đi ước mơ thiếu nữ của họ và đẩy họ lao nhanh về phía trước, đến khi cái chết cận kề trước mặt, mà nhà văn đó vẫn có khả năng tái hiện vẻ đẹp thanh thuần của họ vào những năm đôi mươi, thế mới là đại tài.
Tôi tự hỏi sẽ tìm đâu ra người “họa sĩ” có thể vẽ lại bức chân của bà ngoại bây giờ bằng giấy trắng mực đen.
Sáng nay, tôi nhìn thấy bà ngoại ở trong vườn. Bà đang dùng sức đẩy hai bánh xe lăn di chuyển, nhưng vô dụng, trong vườn là đất cát, có thể bánh xe đã bị lún. Tôi nghiêng đầu mỉm cười, chạy thật nhanh đến giải cứu bà. Bà ngoại ngước mắt lên nhìn tôi, không nói gì, chỉ chậm rãi lắc đầu. Ánh mắt của bà thể hiện chút gì đó bất lực. Khi nhìn những ngày tháng oai phong đi qua, đến lúc tuổi già phải chịu sự giám sát của người khác như một đứa nhóc thường xuyên gây chuyện, tôi nghĩ bà ngoại đang thất vọng về bản thân mình lắm.
Bà ngoại vuốt ngực hít một hơi thật sâu. Ngay dưới ánh nắng mặt trời chói chang, soi rõ từng đường nếp trên khuôn mặt bà. Càng nhìn thì tôi lại càng sợ. Tôi chỉ sợ rằng, đợi đến lúc tôi trưởng thành rồi, thì đối với bà ngoại… sẽ không kịp nữa.
“Cháu hôm nay không cần đến trường sao?”
Tôi lắc đầu: “Cháu đang được nghỉ lễ.”
Tôi nhớ đã nói với bà hàng ngàn lần về chuyện này rồi.
“Cháu tuổi con gì hả?”
“Con rắn ạ. Sinh vào buổi tối – 8h30.”
Tôi trình bày đầy đủ.
“Ừ… ừ. Để xem, thế năm nay mười chín rồi hả? Lớn rồi, trổ mả rồi!”
Bà nhìn tôi cười mãn nguyện.
“Mẹ nói nhìn hình bà ngày trẻ với cháu bây giờ giống nhau y đúc luôn ạ!”
Bà ngoại cười lớn: “Để xem, cái mũi này, đuôi mắt này, khuôn miệng này… Đúng là giống thật.”
“Nhưng cháu còn trẻ đẹp, ngoại già rồi…” – Bà buông lơi câu nói.
Bà ngoại chắc đang suy tư về lời nói vừa rồi. Bà giống một ngọn nến đang cháy. Ban đầu là một cây nến thanh mảnh, đỏ rực đầy kiêu hãnh, dần dần trở nên xù xì thô ráp bởi lớp sáp chảy xuống, cứ thế theo năm tháng, thấp dần thấp dần, cho đến khi tim nến cháy hết thì lụi tàn. Nhưng có điều tôi dám chắc, trong khoảng thời gian ngọn lửa trong bà bừng cháy mãnh liệt nhất, nó có ý nghĩa hơn tôi nhiều, nên khoảng thời gian còn lại của tôi chính là học cách sống sao cho tỏa sáng như bà.
“Cháu đang học gì ở trường thế hả?” – Bà ngoại bất ngờ đổi chủ đề.
“Đang tập tành trở thành một đại thi hào đấy ạ.”
“Nói nghe ghê thế. Có biết Vũ Trọng Phụng không? Đấy, cứ được như ông ấy thì hãy nói.”
Tôi bĩu môi: “Nếu hơn được thế gì sao ạ?”
“Chẳng có mấy ai học được thói châm biếm tuyệt hảo như ông ấy đâu. Nghe sơ qua như đang rót mật vào tai, nhìn kĩ vào thì mới vỡ lẽ. Đó là thứ giúp ông ấy khác biệt tất cả những nhà văn còn lại.”
Tôi chờ đợi bà tiếp tục. Có lẽ tuổi già khiến khả năng ngôn ngữ của bà bị hạn chế, bà ngoại luôn mất rất nhiều thời gian để nói về một việc gì đó. Cuối cùng thì bộ phim quay chậm của bà ngoại cũng bắt đầu phân cảnh đầu tiên.
Bà ngoại xiết chặt hai bàn tay vào nhau. Đây có thể là câu chuyện cần rất nhiều dũng khí để nói ra.
“Ta gặp ông ấy lần đầu năm ta mười sáu tuổi, còn ông ấy vẫn là một cậu bé vừa chập chững đến tuổi trưởng thành. Ngày xưa ấy, nam nữ gặp nhau chẳng bao giờ là chuyện ngẫu nhiên hay do duyên số, chúng đều là sự sắp đặt. Chỉ một đêm sau khi ngủ dậy, ta biết rằng mình sắp phải lấy chồng.
Ta khi đó cũng giống như bao thiếu nữ khác, ta cũng có người mình thầm để mắt đến. Ta còn có giấc mơ của riêng mình, ta muốn trở thành một cô giáo tiểu học.”
Hình ảnh bà ngoại mặc áo dài lụa, tay cầm thước kẻ, ê a giảng bài trên bục giảng, khuôn mặt bà nghiêng nghiêng bên ô cửa sổ khi chấm bài cho học sinh, mỉm cười một mình vì những trò nghịch phá táo tợn của đám học trò hiện ra trước mắt tôi.
“Ông cố con – là cha của ta, định đoạt cuộc hôn nhân này từ khi ta và ông ấy chưa lọt lòng. Đó là một lời hứa danh dự bí ẩn của những người đàn ông trong gia đình, chẳng ai biết đến việc này, ngay cả mẹ ta. Cháu biết đó, đàn ông ngày nay hay vào thời xưa, đều được xem như trụ cột gia đình, lời nói luôn có trọng lượng hơn bất kì ai. Cho nên khi hôn sự này định đoạt, ta chẳng thể nào làm khác đi được.”
Tôi bắt đầu nhìn sâu vào mắt bà ngoại, con ngươi đã đục màu, còn tròng đen bắt đầu chuyển sang màu xanh lục. Hình ảnh tôi phản chiếu qua đôi mắt bà, chập chờn và mơ hồ, giống như những mảng kí ức về câu chuyện bà đang kể dần dần chấp nối lại với nhau.
“Cha ta chỉ nói với ta rằng đây là người đàn ông phù hợp nhất mà ông đã cất công chọn lựa, theo những tiêu chuẩn riêng của ông ấy. Và ta đã tin ông ấy, tin rằng người cha đáng kính của mình thật sự muốn mang điều tốt đẹp nhất trên đời dành tặng cho ta.
Ta có phần yếu đuối và ngu muội phải không? Tại sao lúc đó ta không hề mảy may có chút phản ứng gì? Tại sao ta lại chấp nhận cuộc hôn nhân đường đột này dễ dàng như ăn một viên kẹo mía vậy chứ?
Ông ngoại con không an phận giống như ta, ông ấy phản ứng kịch liệt, thậm chí còn thề trước mắt gia đình ta trong buổi ra mắt hai bên rằng, nếu ta và ông ấy lấy nhau, thì đêm tân hôn ông ấy sẽ treo cổ tự tử. Đó là một cái tát mạnh vào lòng tự trong của một cô bé như ta. Niềm kiêu hãnh bị tổn thương, ta lần đầu tiên biết hận thù là thế nào. Ta cũng buông lời thề, nếu ta và ông ấy có trở thành vợ chồng thực sự, sẽ ly biệt suốt đời.”
“Sau đó thì sao ạ?” – Tôi không kìm chế được, buột miệng nói.
“Hôn sự được hoãn lại, vì mẹ ta hết lời năn nỉ, nói ta còn hai đứa còn nhỏ, để chúng ta có công ăn việc làm ổn định, rồi lấy nhau sau cũng được. Thật ra là bởi bà thương ta, không muốn ta tuổi còn nhỏ mà phải chịu khổ.
Ta được gửi đi học nghề may ở một huyện xa nhà. Ta đi xa để quên đi sự hổ thẹn đó. Ta không muốn gặp lại gia đình và người đàn ông đó. Một cánh ngu ngốc, ta đã nguyền rủa ông ấy sẽ chết quách ở xó xỉnh nào đó cho rồi.
Ở gần nơi ta làm việc lúc đó có một kho thóc rất lớn của chính quyền, xe hàng tấp nập vào ra, nhân công thì lên đến hàng trăm người. Đám thợ chính của xưởng may có thiện cảm với mấy anh bóc vác hàng bên kho thóc, chúng ta còn thường xuyên rủ nhau đi ăn chè. Tuy thân thiết nhưng luôn giữ gìn kín kẽ, chưa từng có chuyện nào vượt ranh giới bạn bè. Vậy mà…”
Bà ngoại hít một hơi sâu, bà chớp mắt, một giọt nước trong vắt nóng hổi rơi xuống nơi khóe mắt trũng sâu. Bà ngoại… đã lâu như vậy, nhưng bà vẫn đau lòng lắm đúng không?
“Năm đó chiến trận liên miên, đàn ông đến tuổi đều được gọi đi nghĩa vụ. Đa số đều sợ chết mà trốn đi, kho thóc và xưởng may đều đóng cửa vì bom đạn. Duy chỉ có một người, ông ấy không những không rời đi, còn tự nguyện ra trận. Đêm trước ngày chia tay, ông ấy đến nhà trọ ta đang ở, đưa vội cho ta một miếng thiếc trên đó có tên ta và ông ấy, xỏ một sợi cước vàng vào lổ tròn khoét sẵn, đeo vào cổ ta. Ông ấy nói ông ấy muốn làm một người đàn ông dũng cảm, bởi chỉ có như vậy mới xứng với ta. Ta vào giây phút đó, thay vì vui mừng nhảy cẩng lên, trong lòng lại trào dâng sự lo sợ. Ông ấy ra trận là vì ta, để có được trái tim ta. Nhưng ta chẳng thể ngăn ông ấy lại, càng không thể nói ta sợ ông ấy một đi không trở lại, như thế là hủy hoại lòng tự trọng của ông ấy. Ta chỉ im lặng. Tay ta nắm chặt miếng thiếc, như nắm giữ sinh mệnh của ông ấy.”
“Vậy trước đó, bà có biết ông ấy để ý đến bà không ạ?” – Tôi vội vàng tiếp lời.
Bà ngoại ngẫm nghĩ: “Ta không rõ. Ông ấy chưa từng nói điều gì về tình yêu với ta. Ta còn nhớ khi ta vừa mới đến làm ở xưởng may, không có mấy người ưa thích ta, nhất là đám thợ nữ. Họ nghĩ ta là con nhà giàu có, nghĩ ta kênh kiệu, nghĩ ta vô dụng nên bị gia đình tống đi. Ta thường lang thang một mình sau giờ làm, thỉnh thoảng đi ngang qua kho thóc và bị đám thanh niên ở kho thóc trêu chọc, họ thậm chí còn hất vỏ trấu vào người ta, tất cả cười rộ lên trông thật biến thái, chỉ có ông ấy là không. Ông ấy không phản ứng gì, nhìn thoáng qua ta thật nhanh rồi lặp tức cúi đầu. Khi đó thay vì tức giận vì bị trêu chọc, ta bật cười bởi nét ngây ngô của chàng trai đó. Sau đó như ta đã kể, hai bên kho xưởng có qua lại, thế là ta và ông ấy trở thành bạn của nhau.
Có lần ta bị gói hàng rớt từ trên cao xuống trúng chân. Ta bị gãy chân. Thế mà sáng hôm sau đã thấy ông ấy ở trước cửa nhà trọ, mang theo một gào đựng cơm, khoác trên vai là một chiếc túi vải, đưa ra trước mặt ta một cặp nạng tre. Đó là món quà đâu tiên ông ấy tặng cho ta. Từ rất lâu rồi, ta mới cười vui vẻ đến thế.
Trong nhóm bạn lúc đó, đa số đều có đôi có cặp, bọn họ ghép đôi ta với nhiều chàng trai khác nhau, nhưng ta không vui vẻ gì với chuyện đó. Ta muốn chờ một người khác. Ta chờ mãi cho đến đêm hôm đó. Nghĩ thử lại, cũng không biết đó có phải gọi là tỏ tình không nữa!”
Nụ cười chua chát ẩn hiện trên khóe môi bà ngoại.
“Thời đó thông tin liên lạc không hiện đại như bây giờ, lại vào thời chiến trận, sau khi ông ấy ra trận, xưởng may lại đóng cửa, ta không còn cách nào chống chế nữa, đành trở về nhà. Dần dà thì nỗi nhớ mong cũng nguôi ngoai, nhưng ta biết cả đời này ta cũng không quên được người đàn ông đó. Ta biết, ta vẫn luôn chờ đợi, ta tin ông ấy sẽ bình an trở về.
Ta chăm chỉ phụ giúp gia đình buôn bán, vẫn là đứa con ngoan trong mắt cha mẹ. Ta không muốn phụ lòng họ, ta không muốn để họ biết ta đang đau lòng thế nào. Gia đình hoàn toàn không biết chuyện ta và ông ấy, nên họ vẫn nuôi hy vọng sẽ gả ta cho ông ngoại con. Gia đình không ngừng thúc giục, ta chỉ một mực im lặng. Thế rồi, ngày hôm đó một tiểu đoàn được nghỉ phép về thăm gia đình, trong đó có con của một người hàng xóm sát cạnh nhà. Cả gia đình ta đến thăm hỏi, cậu ta kể rất nhiều chuyện trong quân đội, về những trận đánh, về những người đồng đội ra trận, có người trở về chỉ còn một tay, có người mãi mãi nằm lại trên chiến trường.
Ta thu hết dũng khí hỏi về ông ấy, ta nói tên tuổi, cậu kia liền trợn trừng mắt, hỏi ta sao lại biết đến người này. Ta không nhớ nổi mình đã hỏi những gì, chỉ là cậu ta chỉ cúi đầu nhìn xuống chân, toàn thân cậu ta run lên. Ta lay người cậu ta, hỏi ông ấy ra sao rồi? Ông ấy có trở về không? Trong quân đội có phải chịu nhiều đau đớn không? Cậu ta lắc đầu: “Sẽ không còn nữa rồi.”
Cậu ta kể rằng một lần tiểu đoàn đi thám thính tình hình thì bị quân giặc tấn công bất ngờ, rất nhiều người bị thương và hy sinh. Ông ấy và quân chỉ huy cùng vài người nữa may mắn thoát chết, nhưng ông ấy lại bị thương nặng. Yêu cầu lúc đó là phải lập tức trở về nơi tập trung của binh đoàn. Đường hành quân còn xa, lương thực không còn nhiều, tình hình chiến trận đang rất nguy cấp, ông ấy tự nguyện hy sinh, một mình quay trở lại căn cứ của địch để đánh lạc hướng quân địch, giúp cho những người còn lại chạy thoát. Khi tất cả đã chạy được một quãng xa, họ nghe thấy một tiếng nổ kinh hoàng, một mảng rừng bốc cháy hừng hực. Họ nói ông ấy đã cắn chốt lựa đạn nhảy lao vào những tên giặc để cản đường chúng.
Ta ngước nhìn cậu ta, hỏi cậu ta có mệt không, trên đường về nhà đã chợp mắt lúc nào chưa? Cậu ta bật khóc nức nở, mọi người đều đau lòng, duy chỉ có ta không rơi nổi một giọt nước mắt. Có biết lúc đó ta cảm thấy thế nào không?”
“Bà ngoại…” – Tôi ngập ngừng.
“Ta không cảm thấy gì hết, trong lòng trống trơn. Rồi ta gục xuống sàn nhà, cha đỡ ta dậy, ông ôm ta vào lòng, ông bảo ta khóc đi, nhưng ta không khóc, ta chỉ biết mở to mắt nhìn mọi người. Ta vùng đứng dậy, ta đi trong vô định, cũng không biết mình muốn đi đâu. Sau đó, ta có mấy lần tìm đến nhà mẹ của ông ấy, ngôi nhà đơn chiếc, ộp ẹp nằm cạnh một dòng suối nhỏ, ta thấy trên bờ có một người đàn bà già nua, đang lúi cúi cắt cỏ, không biết để cho bò hay thỏ ăn. Ta muốn chạy đến ôm bà ấy mà khóc òa lên, muốn nói với bà ấy mọi chuyện, rằng người đàn ông chúng ta yêu thương nhất, sẽ không trở về nữa. Nhưng ta không dám, ta quay đầu bỏ chạy. Cháu nói xem, ta có hèn nhát không chứ?”
“Bà ngoại, bà dũng cảm lắm!”
“Khoảng thời gian sau đó, không lúc nào ta không nghĩ đến ông ấy. Ta vẫn luôn tưởng tượng, nếu ông ấy còn sống, chúng ta sẽ cùng nhau làm gì, cười nói thế nào. Sau đó, gia đình sợ ta sẽ u uất mà làm chuyện dại dột, một lần nữa hỏi ta về chuyện cưới hỏi. Ta lúc đó đã không còn sức lực để phản kháng, ta gật đầu đồng ý.”
“Người đó là ông ngoại con?” – Tôi ngờ vực.
“Không hiểu tại sao, sau ngần ấy năm trời, cuối cùng ta lại đi làm vợ người đã xua đuổi ta. Sau này, ta vẫn thường hỏi, tại sao ông lại chịu cưới tôi, trong khi ngày xưa thà chết cũng không? Ông ngoại con chỉ lắc đầu nói: “Tôi mệt rồi.”
Ông ngoại con là một người hiền lành, kiên nhẫn và thấu hiểu. Ông ấy vẫn tỏ ra vô thường trước những hành động so sánh ngầm của ta đối với ông ấy và người đàn ông kia. Ông ngoại con chưa từng nói ra, nhưng ta biết, ông ấy cũng đau lòng. Ta ghét cay ghét đắng vẻ mặt cam chịu của ông ngoại con, thà ông ấy mắng chửi ta, hay đánh ta cũng được, như vậy sẽ làm ta bớt đi vài phần cảm giác tội lỗi. Nhưng không, suốt mấy mươi năm trời, ông ngoại con vẫn luôn nhìn ta bằng ánh mắt thương cảm và chịu đựng. Điều đó giày vò ta, giày vò cuộc hôn nhân của chúng ta.”
“Ta cuối cùng không chịu nổi nữa, đã bỏ nhà đi. Ông ngoại con không đi tìm, không cố liên lạc với gia đình ta, ông ấy ở vậy nuôi mẹ và các dì con. Ta là một người mẹ xấu có phải không? Ta quá ích kỉ, ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, nghĩ đến người đàn ông trong lòng mình. Rồi ta kiệt quệ vì đau thương, nổi đau mấy mươi năm trời cuối cùng cũng liền sẹo. Ta dần sống lại, ta hạ thấp hình tượng vĩ đại của người đàn ông kia xuống, thấp đến mức khi mà ta nhắc về ông ấy, ta sẽ thôi không đau lòng nữa. Suốt bao nhiêu năm trời, ta hẹn hò ngoài hôn nhân, gian dối, xảo trá, rượu bia, cờ bạc, chỉ nhằm để quên đi người đàn ông đó, bởi ta tin bằng cách đó, ta có thể quên đi ông ấy. Đến khi ta quay trở về, ông ngoại con vẫn không nói gì, chỉ nắm tay ta, bảo ta nghỉ ngơi đi. Lúc đó ta ngỡ ngàng nhận ra, rốt cuộc người đàn ông đó chỉ nên là một món kỉ vật vô giá, cần được cất kĩ trong một chiếc tủ gỗ, để rồi ta phải thay vào vị trí của ông ấy một đồ vật mới.”
“Nghĩ kĩ lại thì, chuyện của ta cũng chẳng hề gì. Đó không phải là kiểu tình yêu khiến con có thể yêu đến mức điên cuồng, vì người đó mà bất chấp tất cả, chỉ đơn giản là muốn được bên cạnh nhau, cùng nhau trưởng thành. Ta và ông ấy, khi đó đều còn quá trẻ, đều ngu ngốc không hiểu gì về tình yêu, nhưng chúng ta tin tưởng rằng, cảm giác của bản thân dành cho người này, mãi mãi sẽ không thay đổi, tuyệt đối yêu thương và tin tưởng lẫn nhau.
Nếu ta bắt buộc phải quên đi những chuyện trước kia, ta chỉ xin giữ lại hình ảnh ông ấy đưa cặp nạn ra trước mặt ta, nghiêng đầu nói: “Chân cậu sẽ chóng lành thôi, đừng lo!”
Bà ngoại mấp mé đôi môi nứt nẻ, ánh mắt vừa sáng lên lại vội vụt tắt. Tôi không biết phải làm gì, có nên đến gần ôm lấy bà không?
“Cũng vì vậy, ta luôn mang cảm giác mắc nợ đối với ông ngoại con. Vào cái đêm ông ấy yếu đi, cả gia đình cùng túc trực bên giường bệnh, trên mặt ông ngoại con luồn rất nhiều loại ống khác nhau, cả bên hông người nữa. Ông ấy nở nặng nhọc. Ta biết ta sắp mất đi một người vô cùng quan trọng, nhưng ta không thể làm gì cho họ.Ta được các dì con đưa về nhà nghỉ ngơi, sáng sớm hôm sau, khi ta vừa giật mình thức dậy, mẹ con báo tin ông ngoại con vừa trút hơi thở cuối cùng. Cả hai lần ta mất đi người mình yêu thương nhất, ta đều không thể gặp mặt họ lần cuối, đó là cảm giác bất lực đến tê dại.
Nhưng điều khiến ta đau lòng nhất, cháu có biết là gì không? Lúc ta và các dì con đến bệnh viện, y tá đưa cho ta một thứ, cô ấy nói ông ngoại con đã nắm chặt nó trong lòng bàn tay tận đến lúc trút hơi thở cuối cùng: đó là miếng thiếc có khắc tên ta và người đàn ông kia. Mấy ngày trước đó ta đã lú lẫn đánh mất nó ở nơi nào đó trong nhà, ta phát điên lên và lục lọi khắp nơi, cuối cùng ông ngoại con kéo ta lại và nói nhất định sẽ tìm được cho ta. Ông ấy đã giữ đúng lời hứa. Nhưng sau này, sẽ không còn ai vì ta mà giữ lời hứa nữa, sẽ không bao giờ có được ai khác.”
Bà ngoại nhắm chặt mắt, những nếp nhăn trên mặt bà tụ về một điểm, càng làm rõ đường nét của tuổi già hơn bao giờ hết. Thời gian, chưa từng thôi hành hạ bà. Những giọt nước mắt không ngừng rơi xuống, không theo một đường thẳng mà chảy ngoằn ngoèo theo từng nếp gấp trên làn da bà.
Bà ngoại nắm lấy tay tôi lay nhẹ: “Ta làm cháu buồn rồi phải không? Đừng phiền lòng ta nhé?”
Tôi hạ thấp người cho bằng với bà ngoại, ôm bà bằng tất cả tình yêu và sự ngưỡng mộ mà tôi có. Bà ngoại đã sống rất dũng cảm, tôi tin chắc là vậy.
“Ngày mai bà lại kể chuyện cho cháu nghe nữa nhé? Còn bây giờ ta vào nhà thôi, nắng to rồi!”
“Vẫn còn muốn nghe sao?” – Bà cười hiền hậu, nụ cười rất giống cô bé mười tám tuổi trong tấm ảnh trắng đen treo ở phòng khách mà hằng ngày bà vẫn cẩn thận lau bụi.
“Tất nhiên rồi ạ” – Tôi nũng nịu trả lời.
Chỉnh sửa lần cuối: