Ta thân là công chúa Âu Lạc quốc, vậy mà cuộc sống lại bị bó buộc bởi một lời tiên tri vô căn cứ của một lão ăn mày nào đó. Ta thực ra cũng không biết rõ chuyện này, vì phụ hoàng có khi nào nhắc đến đâu, mẫu hậu thì lại càng không thể kể cho ta nghe được, bà đã mất từ lâu rồi. Nhưng, chuyện của ta lại được người trong cung cấm bàn tán không thôi, nên ta nghe lỏm được chỗ này một chút, chỗ kia một tẹo mà chắp vá thành như sau:
Năm đó, mẫu hậu ta sinh ta rất khó khăn, bà trở dạ suốt ba ngày liền mà vẫn không sinh được. Phụ hoàng ta cực kì lo lắng, hoảng hết việc triều chính, túc trực ở bên cạnh mẫu hậu ta. Mãi cho đến buổi sáng của ngày thứ tư, khi phía đằng đông mặt trời hửng ánh hồng, trong điện Vân Châu một tiếng khóc của hài tử như xé cả đất trời vang vọng tứ phía. Cùng lúc đó, giữa bầu trời trong xanh, nắng vàng chan hòa bỗng xuất hiện một đạo sấm sét khiến trời long đất lỡ. Hiện tượng kì lạ này, khiến mọi người vô cùng hoảng hốt. Phụ hoàng ta cũng kinh ngạc không kém, liền vời người tiên đoán điềm báo này và vận mệnh của ta. Ai gặp phụ hoàng của ta cũng khen đó là điềm lành, bảo ta sẽ trở thành một bậc minh chủ sau này, khiến bốn phương tám hướng đều khiếp sợ bở quyền uy. Phụ hoàng ta cũng rất vui mừng bằng mở tiệt linh đình, và ban cho ta một cái tên rất hay- Mỵ Châu. Ta nghĩ đi nghĩ lại vẫn không biết cái tên Mỵ Châu với điềm báo đạo thiên lôi kia có gì liên quan, mãi sau này rất lâu sau này ta mới biết đó chỉ là cái tên mà mẫu hậu ta rất thích mà thôi, chẳng liên quan gì đến điềm báo đó cả.
Sau khi sinh ta, mẫu hậu ta lâm bệnh nặng, phụ hoàng ta vời hết thái y đến chuẩn đoán nhưng ai cũng lắc đầu không chữa được. Phụ hoàng ta bằng phái binh lính đi tìm thần y cứu chữa cho mẫu hậu ta. Đến ngày thứ mười kể từ lúc phát lệnh, đám lính dẫn về một lão ăn mày rồi bảo người đó tự xưng là thần y, lão có thể chữa khỏi bệnh cho mẫu hậu ta. Phụ hoàng ta rất vui mừng, bằng đích thân đến gặp lão ăn mày đó, mời lão vào điện Vân Châu để thăm khám. Nhưng lão ăn mày đó khi gặp phụ hoàng ta chỉ nói mấy câu thế này rồi phất áo đi, mà không hề bước chân tới điện Vân Châu.
“ Bẩm thánh thượng. Thánh thượng chớ vì chuyện của hoàng hậu mà hao tâm tổn sức, số mạng đã tận thì không thể kéo dài thêm được nữa, nếu không sẽ trái lại ý trời. Người nên dành sức lực cho đại sự sắp tới. Bách tính là con dân của ngài, đừng vì một nhi nữ mà đánh đỗ cả giang san. Công chúa ra đời sấm sét vang trời, vận nàng vận nước đi đôi, chớ hề coi kinh. Lúc vạn phần nguy nan, cứ phương Đông mà tiến, ắc có người chờ.”
Nghe xong phụ hoàng ta cực kì tức giận liền tút kiếm định giết lão thì có người từ điện Vân Châu mang tin đến báo mẫu hậu ta đã tạ thế. Phụ hoàng cực kì đau khổ, chẳng màng đến lão ăn mày nữa, binh lính liền đem lão nhốt vào đại lao, chờ khi phụ hoàng ta ngơi ngoa đau buồn sẽ tấu lên người xử lí sau. Mẫu hậu ta qua đời, hai ngày sau ở phương Bắc quân Triệu Đà kéo đánh.
Lúc này, phụ hoàng mới thấy lời lão ăn mày nói trùng khớp với những việc xảy ra, thì vô cùng bất an, liền đích thân tới đại lao gặp lão, nhưng một chút lông của lão cũng không tìm thấy. Binh lính canh ngục cũng hết sức hoảng hốt, đại lao là nơi giam giữ tù nhân cực kì cẩn trọng, trong ngoài vài chục lớp lính canh, đến nổi một con muỗi cũng không qua được, huống hồ gì là một con người. Mọi người biết chuyện này liền suy đoán lão ăn mày là thần, đến mách nước cho phụ hoàng ta. Còn với ta, lão ta là kẻ thù không đội trời chung, là tên ăn mày đáng ghét nhất từ trên đời này. Vì tin lời lão mà phụ hoàng nhất nhất không cho ta rời hoàng cung nữa bước, sợ có chuyện bất trắc với ta, thì ảnh hưởng đến sự an nguy của đất nước.
Lại nói chuyện Triệu Đà tiến đánh, ban đầu phụ hoàng ta phái tướng quân Cao Lỗ ra nghênh giặc. Tướng quân Cao Lỗ tuổi vừa đôi mươi nhưng trí dũng vô song, đa mưu túc kế trăm trận trăm thắng, nhưng lần này thế giặc hùng mạnh lại nuôi ý sâm lược từ lâu nên chuẩn bị kĩ càng, còn quân ta ở thế bị động nên không thể nào cản được bước tiến của quân thù. Tướng Cao Lỗ bại trận, phải rút về cố thủ ở thành Cổ Loa, khắp nơi máu chảy thành sông, bách tính ca thán không ngơi. Phụ hoàng ta vì chuyện này hao tổn tâm trí rất nhiều, ngày thì bày mưu tính kế với Cao Lỗ, đêm tới thì trằn trọc không yên. Chẳng hiểu sau, một sáng phụ hoàng ta ra lệnh cho triệu tập toàn bộ thợ rèn giỏi nhất lại, đưa cho họ một bản vẽ yêu cầu họ phải làm xong sớm nhất có thể. Ba tháng sau, trên cổng hoàng thành một loại binh khí chưa từng thấy trước đó, oai vệ hiện hữu. Binh khí mới lạ này được phụ hoàng ta gọi là Nỏ Thần, một phát bắn của Nỏ Thần là hàng ngàn mũi tên bay ra. Nhờ có nó mà quân Triệu Đà người chết như ngã rạ, không dám công kích hoàng thành. Trận chiến kéo dài ba ngày liên tiếp, Triệu Đà quân chết quá nữa đành phải cầu hòa lui về nước. Phụ hoàng ta vui mừng khôn xiết. Nhưng Triệu Đà mưu thâm kế độc, lần thua vừa rồi khiến bọn chúng không phục thế là cứ ba năm lại gióng quân sang đánh một lần, mấy lần trước phụ hoàng ta có chút nhân nhượng lấy câu dĩ hòa vi quý làm đầu, nhưng thấy giặc cứ ngoan cường, nếu cứ thế mãi, dân sinh của Âu Lạc quốc cũng chẳng thể an tâm mà làm ăn, trồng trọt. Trước lần Triệu Đà kéo quân sang đánh lần ba, Phụ hoàng ta cùng tướng Cao Lỗ quyết một phen sống mái, quân Triệu Đà bị đánh tan tác, bỏ giáo bỏ mác tháo chạy về biên giới. Cao Lỗ theo lời phụ hoàng ta quyết không để Triệu Đà tháo lui như lần trước, truy đuổi giặc tới tận giáp ranh hai nước Âu Lạc và Triệu Đà, chặt đầu tên tướng giặc, bỏ thủ cấp của hắn vào trong một hộp gỗ, sai đám tàn binh gởi về nước. Kể từ lần đó, đã vài năm trôi qua, Triệu Đà chẳng dám bén mãn đến gần Âu Lạc, dân chúng Âu lạc hưởng thái bình an vui, chí thú làm ăn, đời sống ngày càng sung túc, đất nước hưng vượng, khí thế ngút trời.
Còn về Nỏ Thần thì không ai biết ở đâu nữa.
Chặc, bọn họ có thể không biết Nỏ Thần ở đâu, chứ bổn công chúa ta đây thì lại biết đấy. Nhờ ơn của lão ăn mày nói mấy lời nhảm nhí đó mà ta ở trong hoàng cung này mười mấy năm không hề bước chân ra khỏi nên có rất nhiều thời gian rãnh rỗi. Ta không phải là một thục nữ, cứ hễ bị nhốt lại là theo thùa vẽ tranh để giết thời gian, nói trắng ra ta không giỏi cầm kì thi họa, nhưng trèo tường, vượt vách thì cực kì am hiểu. Dù chưa có gan trốn khỏi hoàng cung, nhưng cũng có gan lần mò mọi nghóc ngách trong hoàng cung này, thậm chí lỗ chó của hoàng cung có bao nhiêu cái, ở chỗ nào ta cũng biết nữa là…
Vì rãnh rỗi đến vậy nên trong một lần thám hiểm vườn ngự uyển của phụ hoàng ta phát hiện ra một cấm địa.
Vườn ngự uyển nằm ở phía Đông Nam hoàng cung là nơi đón ánh nắng đầu tiên của thành Cổ loa. Nơi này trồng vô số loài hoa đẹp,còn có mấy chục gốc đào được đào từ rừng già về trồng, mỗi năm cứ xuân về cả vườn ngự uyển một sắc hồng rực trời. Nghe bọn thị nữ nói rằng trước kia khi có thai ta, mẫu hậu ta ở chỗ này suốt, một phần vì mẫu hậu ta thích cảnh đẹp nơi này, một phần vì nơi này có khí hậu mát mẻ hương hoa nhàn nhạt thích hợp để dưỡng thai.
Mỗi lần ta nhớ lại cái hôm lén vào vườn ngự uyển chơi rồi rơi vào cấm địa mà mồ hôi lạnh cứ túa ra như mưa. Ta thề, sau này có vào vườn ngự uyển nữa cũng không bao giờ mom mem đến gần cấm địa dù chỉ là nữa bước chân.
Ta thân là công chúa Âu Lạc quốc, dưới một người trên vạn người, nói thì quyền uy vậy đó, nhưng thực chất chẳng được như vậy. Hoàng cung rộng lớn này có nhiều chỗ ta cũng không được phép lui tới thứ nhất là mật đạo thờ vua Hùng. Ta thắc mắc vì sao phụ hoàng lật đỗ các vua Hùng để thống nhất Âu Lạc mà giờ còn phải lập đền thờ, chẳng phải thắng làm vua thua làm giặc sao? Giờ nhớ lại khi đó ta thấy mình thật ngu ngốc, chẳng phải thần dân Âu Lạc có câu uống nước nhớ nguồn là gì? Phụ hoàng ta quả là người có tầm nhìn sâu trông rộng, chiếm đất của vua Hùng rồi, mà vẫn thờ phượng đàng hoàng để yên lòng dân chúng, ra vẻ bản thân là bậc minh quân, không đuổi cùng diệc tận, vẫn ghi nhớ công ơn của người đã khai phá vùng đất này.
Sau này phụ hoàng nói cho ta biết lí do mà ta không được vào mật đạo kia khiến ta không nhịn được cười, vừa cười vừa nghĩ phụ hoàng lo hão. Ta đã một lần trốn vào trong đó rồi mà có sao đâu, chỉ là sau này sẽ không vào nữa, trong mật đạo đó chán phèo chỉ có mấy tấm bài vị, đèn đuốc, chuông khánh, lư đồng thôi. Phụ hoàng sợ các vị vua nước Văn Lang thấy con gái của kẻ thù mà sanh oán hận, làm hại đến ta mà mạng ta với vận khí của đất nước này có liên quan mật thiết đến nhau, nên phụ hoàng lo xa. Ta không biết mấy tấm bài vị kia thì có oán khí kiểu gì mà làm hại ta được chứ.
Nơi thứ hai là đại lao, trong đại lao có nhiều người chết, phụ hoàng lo ta không thể chịu được âm khí nơi đó, sợ tổn hại đến thần trí. Ta mặc kệ lời phụ hoàng nói, đã từng trèo tường chui vào đại lao một lần. Quả thật nơi đó không nên tới lần hai, ẩm mốc, và hôi thối quá sức chịu đựng của ta. Tù nhân trong đó khỏi cần hành hình cũng chết vì mùi hôi thối rồi. Ta lại nghĩ đến lão ăn mày bị nhốt trong đó tự nhiên oán giận dành cho lão cũng tiêu tán vài phần.
Nơi thứ ba cũng là nơi cuối cùng , nhưng nơi này ta có thể vào khi có phụ hoàng đi cùng, đó là vườn ngự uyển. Mỗi năm khi khí trời chuyển xuân, phụ hoàng lại dắt ta dạo một vòng ở vườn ngự uyển, ngắm từng đóa đào, từng bông lan rừng. Ta thấy vườn ngự uyển chẳng có nguy hiểm gì cả vậy tại sao phụ hoàng lại phải cứ theo sát ta làm gì chứ nhỉ? Hay tại người sợ cây cối trong vườn hóa yêu quái có thể ăn thịt ta, hoặc cánh anh đào bống nhiên nặng như đá có thể rơi bể đầu ta? Đó là những suy nghĩ của ta khi ta chưa biết được trong khu vườn thơ mộng này có một cấm địa chết người.
Ta là một đứa ngỗ nghịch hay cãi lời phụ hoàng nên điều người ra sức cấm đoán, ta lại ra sức làm trái. Vào môt đêm trăng tròn tháng sáu, ánh trăng dịu nhẹ trãi khắp hoàng cung, ta cùng một thị nữ thân tin tên là A Hoành bắt đầu công cuộc khám phá vườn ngự uyển.
Đêm đó có trăng, có gió mát, trong vườn ngự uyển dạ hương hoa nở trắng phau một góc vườn, hương thơm ngào ngạc. A Hoành được ta giao nhiệm vụ việc trông cửa, nếu có ai đến vườn ngự uyển liền giả tiếng mèo kêu để báo động cho ta biết mà trốn. Ta muốn thử một mình mình vào trong ngự uyển thì sẽ có chuyện gì xảy ra.
Sắp xếp ổn thỏa, ta thong dong ngắm dạ hương hoa, thưởng trăng, đi đi lại lại trên lối lác đá cẩm thạch. Mãi một hồi lâu vẫn chẳng có gì xảy ra cả, chỉ có cơn buồn ngủ là kéo đến, ta định ra về, thì A Hoành ngoài kia ra sức giả tiếng mèo kêu:
“ Meo.. meo..”
Ta giật bén người, biết là có người tới, mà vườn ngự uyển này ngoài phụ hoàng ta ra, thì chỉ có bọn nô tỳ mỗi sớm tưới nước cho cây ra thì chẳng ai dám lại gần. Không lẽ cây ở vườn ngự uyển phải được tưới nước cả ban đêm sao? Không đúng, không đúng, chắc là phụ hoàng ta tới rồi, nếu bắt gặp ta lang thang ở đây thể nào cũng bắt ta về chép kinh thi mất thôi. Lòng ta loạn như tơ vò, phải tìm chỗ nấp mới được. Nhưng nấp ở đâu bây giờ?Ta nhìn quanh khắp nơi, vườn ngự uyển tuy rộng đấy, cây cối nhiều đấy, nhưng chẳng có chỗ nào kín đáo cả. Tiếng mèo kêu im bặt, chỉ có tiếng bước chân là ngày càng gần. Trên đầu ta mồ hôi lấm tấm rơi.
A, ta tìm thấy chỗ nấp rồi. Tảng đá to được đặt ở góc ngự uyển có thể che hết thân ta, nhưng trước kia phụ hoàng ta luôn dặn ta không bao giờ được lại gần tảng đá đó dù là có phụ hoàng ở đấy, hình như phụ hoàng còn nói tảng đá đó bị ma ám, ai sờ nó vào liền bị ma nhập. Bây giờ ta đường cùng rồi, ma nhập cũng còn hơn là chết kinh thi, ta không muốn chép kinh thi. Nghĩ thế ta liền chạy lại phía sau tảng đá. Chỉ có điều ta tính không bằng trời tính, chưa đi tới tảng đá, ta vấp phải một cái dây leo không biết ở đâu giăng ngang qua lối đi, khiến ta vấp té. Trước khi thấy đầu mình va vào tảng đá, ta liền theo quán tính, dùng hai tay đẩy tảng đá đi.
Ồ, hóa ra ta mạnh đến vậy, tảng đá to thế kia mà chỉ cần một lực đẩy của, ta nó liền nức toạt ra làm đôi.
Một màu đen bao trùm vạn vật. Ta không biết gì nữa.
" Còn nữa."
Năm đó, mẫu hậu ta sinh ta rất khó khăn, bà trở dạ suốt ba ngày liền mà vẫn không sinh được. Phụ hoàng ta cực kì lo lắng, hoảng hết việc triều chính, túc trực ở bên cạnh mẫu hậu ta. Mãi cho đến buổi sáng của ngày thứ tư, khi phía đằng đông mặt trời hửng ánh hồng, trong điện Vân Châu một tiếng khóc của hài tử như xé cả đất trời vang vọng tứ phía. Cùng lúc đó, giữa bầu trời trong xanh, nắng vàng chan hòa bỗng xuất hiện một đạo sấm sét khiến trời long đất lỡ. Hiện tượng kì lạ này, khiến mọi người vô cùng hoảng hốt. Phụ hoàng ta cũng kinh ngạc không kém, liền vời người tiên đoán điềm báo này và vận mệnh của ta. Ai gặp phụ hoàng của ta cũng khen đó là điềm lành, bảo ta sẽ trở thành một bậc minh chủ sau này, khiến bốn phương tám hướng đều khiếp sợ bở quyền uy. Phụ hoàng ta cũng rất vui mừng bằng mở tiệt linh đình, và ban cho ta một cái tên rất hay- Mỵ Châu. Ta nghĩ đi nghĩ lại vẫn không biết cái tên Mỵ Châu với điềm báo đạo thiên lôi kia có gì liên quan, mãi sau này rất lâu sau này ta mới biết đó chỉ là cái tên mà mẫu hậu ta rất thích mà thôi, chẳng liên quan gì đến điềm báo đó cả.
Sau khi sinh ta, mẫu hậu ta lâm bệnh nặng, phụ hoàng ta vời hết thái y đến chuẩn đoán nhưng ai cũng lắc đầu không chữa được. Phụ hoàng ta bằng phái binh lính đi tìm thần y cứu chữa cho mẫu hậu ta. Đến ngày thứ mười kể từ lúc phát lệnh, đám lính dẫn về một lão ăn mày rồi bảo người đó tự xưng là thần y, lão có thể chữa khỏi bệnh cho mẫu hậu ta. Phụ hoàng ta rất vui mừng, bằng đích thân đến gặp lão ăn mày đó, mời lão vào điện Vân Châu để thăm khám. Nhưng lão ăn mày đó khi gặp phụ hoàng ta chỉ nói mấy câu thế này rồi phất áo đi, mà không hề bước chân tới điện Vân Châu.
“ Bẩm thánh thượng. Thánh thượng chớ vì chuyện của hoàng hậu mà hao tâm tổn sức, số mạng đã tận thì không thể kéo dài thêm được nữa, nếu không sẽ trái lại ý trời. Người nên dành sức lực cho đại sự sắp tới. Bách tính là con dân của ngài, đừng vì một nhi nữ mà đánh đỗ cả giang san. Công chúa ra đời sấm sét vang trời, vận nàng vận nước đi đôi, chớ hề coi kinh. Lúc vạn phần nguy nan, cứ phương Đông mà tiến, ắc có người chờ.”
Nghe xong phụ hoàng ta cực kì tức giận liền tút kiếm định giết lão thì có người từ điện Vân Châu mang tin đến báo mẫu hậu ta đã tạ thế. Phụ hoàng cực kì đau khổ, chẳng màng đến lão ăn mày nữa, binh lính liền đem lão nhốt vào đại lao, chờ khi phụ hoàng ta ngơi ngoa đau buồn sẽ tấu lên người xử lí sau. Mẫu hậu ta qua đời, hai ngày sau ở phương Bắc quân Triệu Đà kéo đánh.
Lúc này, phụ hoàng mới thấy lời lão ăn mày nói trùng khớp với những việc xảy ra, thì vô cùng bất an, liền đích thân tới đại lao gặp lão, nhưng một chút lông của lão cũng không tìm thấy. Binh lính canh ngục cũng hết sức hoảng hốt, đại lao là nơi giam giữ tù nhân cực kì cẩn trọng, trong ngoài vài chục lớp lính canh, đến nổi một con muỗi cũng không qua được, huống hồ gì là một con người. Mọi người biết chuyện này liền suy đoán lão ăn mày là thần, đến mách nước cho phụ hoàng ta. Còn với ta, lão ta là kẻ thù không đội trời chung, là tên ăn mày đáng ghét nhất từ trên đời này. Vì tin lời lão mà phụ hoàng nhất nhất không cho ta rời hoàng cung nữa bước, sợ có chuyện bất trắc với ta, thì ảnh hưởng đến sự an nguy của đất nước.
Lại nói chuyện Triệu Đà tiến đánh, ban đầu phụ hoàng ta phái tướng quân Cao Lỗ ra nghênh giặc. Tướng quân Cao Lỗ tuổi vừa đôi mươi nhưng trí dũng vô song, đa mưu túc kế trăm trận trăm thắng, nhưng lần này thế giặc hùng mạnh lại nuôi ý sâm lược từ lâu nên chuẩn bị kĩ càng, còn quân ta ở thế bị động nên không thể nào cản được bước tiến của quân thù. Tướng Cao Lỗ bại trận, phải rút về cố thủ ở thành Cổ Loa, khắp nơi máu chảy thành sông, bách tính ca thán không ngơi. Phụ hoàng ta vì chuyện này hao tổn tâm trí rất nhiều, ngày thì bày mưu tính kế với Cao Lỗ, đêm tới thì trằn trọc không yên. Chẳng hiểu sau, một sáng phụ hoàng ta ra lệnh cho triệu tập toàn bộ thợ rèn giỏi nhất lại, đưa cho họ một bản vẽ yêu cầu họ phải làm xong sớm nhất có thể. Ba tháng sau, trên cổng hoàng thành một loại binh khí chưa từng thấy trước đó, oai vệ hiện hữu. Binh khí mới lạ này được phụ hoàng ta gọi là Nỏ Thần, một phát bắn của Nỏ Thần là hàng ngàn mũi tên bay ra. Nhờ có nó mà quân Triệu Đà người chết như ngã rạ, không dám công kích hoàng thành. Trận chiến kéo dài ba ngày liên tiếp, Triệu Đà quân chết quá nữa đành phải cầu hòa lui về nước. Phụ hoàng ta vui mừng khôn xiết. Nhưng Triệu Đà mưu thâm kế độc, lần thua vừa rồi khiến bọn chúng không phục thế là cứ ba năm lại gióng quân sang đánh một lần, mấy lần trước phụ hoàng ta có chút nhân nhượng lấy câu dĩ hòa vi quý làm đầu, nhưng thấy giặc cứ ngoan cường, nếu cứ thế mãi, dân sinh của Âu Lạc quốc cũng chẳng thể an tâm mà làm ăn, trồng trọt. Trước lần Triệu Đà kéo quân sang đánh lần ba, Phụ hoàng ta cùng tướng Cao Lỗ quyết một phen sống mái, quân Triệu Đà bị đánh tan tác, bỏ giáo bỏ mác tháo chạy về biên giới. Cao Lỗ theo lời phụ hoàng ta quyết không để Triệu Đà tháo lui như lần trước, truy đuổi giặc tới tận giáp ranh hai nước Âu Lạc và Triệu Đà, chặt đầu tên tướng giặc, bỏ thủ cấp của hắn vào trong một hộp gỗ, sai đám tàn binh gởi về nước. Kể từ lần đó, đã vài năm trôi qua, Triệu Đà chẳng dám bén mãn đến gần Âu Lạc, dân chúng Âu lạc hưởng thái bình an vui, chí thú làm ăn, đời sống ngày càng sung túc, đất nước hưng vượng, khí thế ngút trời.
Còn về Nỏ Thần thì không ai biết ở đâu nữa.
Chặc, bọn họ có thể không biết Nỏ Thần ở đâu, chứ bổn công chúa ta đây thì lại biết đấy. Nhờ ơn của lão ăn mày nói mấy lời nhảm nhí đó mà ta ở trong hoàng cung này mười mấy năm không hề bước chân ra khỏi nên có rất nhiều thời gian rãnh rỗi. Ta không phải là một thục nữ, cứ hễ bị nhốt lại là theo thùa vẽ tranh để giết thời gian, nói trắng ra ta không giỏi cầm kì thi họa, nhưng trèo tường, vượt vách thì cực kì am hiểu. Dù chưa có gan trốn khỏi hoàng cung, nhưng cũng có gan lần mò mọi nghóc ngách trong hoàng cung này, thậm chí lỗ chó của hoàng cung có bao nhiêu cái, ở chỗ nào ta cũng biết nữa là…
Vì rãnh rỗi đến vậy nên trong một lần thám hiểm vườn ngự uyển của phụ hoàng ta phát hiện ra một cấm địa.
Vườn ngự uyển nằm ở phía Đông Nam hoàng cung là nơi đón ánh nắng đầu tiên của thành Cổ loa. Nơi này trồng vô số loài hoa đẹp,còn có mấy chục gốc đào được đào từ rừng già về trồng, mỗi năm cứ xuân về cả vườn ngự uyển một sắc hồng rực trời. Nghe bọn thị nữ nói rằng trước kia khi có thai ta, mẫu hậu ta ở chỗ này suốt, một phần vì mẫu hậu ta thích cảnh đẹp nơi này, một phần vì nơi này có khí hậu mát mẻ hương hoa nhàn nhạt thích hợp để dưỡng thai.
Mỗi lần ta nhớ lại cái hôm lén vào vườn ngự uyển chơi rồi rơi vào cấm địa mà mồ hôi lạnh cứ túa ra như mưa. Ta thề, sau này có vào vườn ngự uyển nữa cũng không bao giờ mom mem đến gần cấm địa dù chỉ là nữa bước chân.
Ta thân là công chúa Âu Lạc quốc, dưới một người trên vạn người, nói thì quyền uy vậy đó, nhưng thực chất chẳng được như vậy. Hoàng cung rộng lớn này có nhiều chỗ ta cũng không được phép lui tới thứ nhất là mật đạo thờ vua Hùng. Ta thắc mắc vì sao phụ hoàng lật đỗ các vua Hùng để thống nhất Âu Lạc mà giờ còn phải lập đền thờ, chẳng phải thắng làm vua thua làm giặc sao? Giờ nhớ lại khi đó ta thấy mình thật ngu ngốc, chẳng phải thần dân Âu Lạc có câu uống nước nhớ nguồn là gì? Phụ hoàng ta quả là người có tầm nhìn sâu trông rộng, chiếm đất của vua Hùng rồi, mà vẫn thờ phượng đàng hoàng để yên lòng dân chúng, ra vẻ bản thân là bậc minh quân, không đuổi cùng diệc tận, vẫn ghi nhớ công ơn của người đã khai phá vùng đất này.
Sau này phụ hoàng nói cho ta biết lí do mà ta không được vào mật đạo kia khiến ta không nhịn được cười, vừa cười vừa nghĩ phụ hoàng lo hão. Ta đã một lần trốn vào trong đó rồi mà có sao đâu, chỉ là sau này sẽ không vào nữa, trong mật đạo đó chán phèo chỉ có mấy tấm bài vị, đèn đuốc, chuông khánh, lư đồng thôi. Phụ hoàng sợ các vị vua nước Văn Lang thấy con gái của kẻ thù mà sanh oán hận, làm hại đến ta mà mạng ta với vận khí của đất nước này có liên quan mật thiết đến nhau, nên phụ hoàng lo xa. Ta không biết mấy tấm bài vị kia thì có oán khí kiểu gì mà làm hại ta được chứ.
Nơi thứ hai là đại lao, trong đại lao có nhiều người chết, phụ hoàng lo ta không thể chịu được âm khí nơi đó, sợ tổn hại đến thần trí. Ta mặc kệ lời phụ hoàng nói, đã từng trèo tường chui vào đại lao một lần. Quả thật nơi đó không nên tới lần hai, ẩm mốc, và hôi thối quá sức chịu đựng của ta. Tù nhân trong đó khỏi cần hành hình cũng chết vì mùi hôi thối rồi. Ta lại nghĩ đến lão ăn mày bị nhốt trong đó tự nhiên oán giận dành cho lão cũng tiêu tán vài phần.
Nơi thứ ba cũng là nơi cuối cùng , nhưng nơi này ta có thể vào khi có phụ hoàng đi cùng, đó là vườn ngự uyển. Mỗi năm khi khí trời chuyển xuân, phụ hoàng lại dắt ta dạo một vòng ở vườn ngự uyển, ngắm từng đóa đào, từng bông lan rừng. Ta thấy vườn ngự uyển chẳng có nguy hiểm gì cả vậy tại sao phụ hoàng lại phải cứ theo sát ta làm gì chứ nhỉ? Hay tại người sợ cây cối trong vườn hóa yêu quái có thể ăn thịt ta, hoặc cánh anh đào bống nhiên nặng như đá có thể rơi bể đầu ta? Đó là những suy nghĩ của ta khi ta chưa biết được trong khu vườn thơ mộng này có một cấm địa chết người.
Ta là một đứa ngỗ nghịch hay cãi lời phụ hoàng nên điều người ra sức cấm đoán, ta lại ra sức làm trái. Vào môt đêm trăng tròn tháng sáu, ánh trăng dịu nhẹ trãi khắp hoàng cung, ta cùng một thị nữ thân tin tên là A Hoành bắt đầu công cuộc khám phá vườn ngự uyển.
Đêm đó có trăng, có gió mát, trong vườn ngự uyển dạ hương hoa nở trắng phau một góc vườn, hương thơm ngào ngạc. A Hoành được ta giao nhiệm vụ việc trông cửa, nếu có ai đến vườn ngự uyển liền giả tiếng mèo kêu để báo động cho ta biết mà trốn. Ta muốn thử một mình mình vào trong ngự uyển thì sẽ có chuyện gì xảy ra.
Sắp xếp ổn thỏa, ta thong dong ngắm dạ hương hoa, thưởng trăng, đi đi lại lại trên lối lác đá cẩm thạch. Mãi một hồi lâu vẫn chẳng có gì xảy ra cả, chỉ có cơn buồn ngủ là kéo đến, ta định ra về, thì A Hoành ngoài kia ra sức giả tiếng mèo kêu:
“ Meo.. meo..”
Ta giật bén người, biết là có người tới, mà vườn ngự uyển này ngoài phụ hoàng ta ra, thì chỉ có bọn nô tỳ mỗi sớm tưới nước cho cây ra thì chẳng ai dám lại gần. Không lẽ cây ở vườn ngự uyển phải được tưới nước cả ban đêm sao? Không đúng, không đúng, chắc là phụ hoàng ta tới rồi, nếu bắt gặp ta lang thang ở đây thể nào cũng bắt ta về chép kinh thi mất thôi. Lòng ta loạn như tơ vò, phải tìm chỗ nấp mới được. Nhưng nấp ở đâu bây giờ?Ta nhìn quanh khắp nơi, vườn ngự uyển tuy rộng đấy, cây cối nhiều đấy, nhưng chẳng có chỗ nào kín đáo cả. Tiếng mèo kêu im bặt, chỉ có tiếng bước chân là ngày càng gần. Trên đầu ta mồ hôi lấm tấm rơi.
A, ta tìm thấy chỗ nấp rồi. Tảng đá to được đặt ở góc ngự uyển có thể che hết thân ta, nhưng trước kia phụ hoàng ta luôn dặn ta không bao giờ được lại gần tảng đá đó dù là có phụ hoàng ở đấy, hình như phụ hoàng còn nói tảng đá đó bị ma ám, ai sờ nó vào liền bị ma nhập. Bây giờ ta đường cùng rồi, ma nhập cũng còn hơn là chết kinh thi, ta không muốn chép kinh thi. Nghĩ thế ta liền chạy lại phía sau tảng đá. Chỉ có điều ta tính không bằng trời tính, chưa đi tới tảng đá, ta vấp phải một cái dây leo không biết ở đâu giăng ngang qua lối đi, khiến ta vấp té. Trước khi thấy đầu mình va vào tảng đá, ta liền theo quán tính, dùng hai tay đẩy tảng đá đi.
Ồ, hóa ra ta mạnh đến vậy, tảng đá to thế kia mà chỉ cần một lực đẩy của, ta nó liền nức toạt ra làm đôi.
Một màu đen bao trùm vạn vật. Ta không biết gì nữa.
" Còn nữa."
Chỉnh sửa lần cuối: