Ngày mai buổi sáng phải đến trường, còn có bài kiểm tra giữa kì.
Buổi trưa đi đến tiệm bánh làm thêm.
Buổi chiều đi dạy thêm ở quận 13.
Tối về nhà nên đi ăn hay ở nhà nấu cơm đây?
Tháng này chưa đóng tiền nhà nữa.
Còn gì nữa nhỉ?
Mỗi ngày, khi tôi còn chưa kịp ngả lưng xuống giường, đã vội lẩm nhẩm thời khóa biểu xem ngày mai phải làm những gì. Tôi từ lâu đã nhận ra, việc ngồi hàng tiếng đồng hồ trên băng ghế gỗ, tay không ngừng ghi ghi chép chép những công thức mà cả đời này tôi không chắc khi nào mình sẽ dùng đến, tầm mắt không được rời khỏi bảng xanh, không được phản ứng mỗi khi thầy cô đang giảng bài, mặc dù đôi khi họ nói điều gì đó mà tôi không tài nào hiểu nổi, đó không phải công việc thuộc về một cô gái như tôi.
Thứ có thể khiến tôi ngồi lì hàng giờ đồng hồ mà không biết chán là thế giới bên trong những trang sách. Tất nhiên, ngoại trừ sách giáo khoa.
Nếu ai cũng hiểu được sự kì diệu của những con chữ thì hay biết mấy. Mà tốt hơn hết là loài người nên đọc nhiều sách vào, rồi hành xử như trong truyện cũng được. Như thế cuộc sống sẽ bớt được vài phần nhẫn tâm và lạnh nhạt, vì đa số cốt truyện rồi sẽ dẫn đến kết thúc có hậu. Nhưng tôi còn yêu cả những quyển sách cũ kĩ, chứa đầy bụi mỗi khi vỗ vỗ vào bìa của chúng, được cất kĩ vào một góc nào đó trên những cái kệ gỗ trong thư viện thành phố, dưới nhà kho, bên trong một nhà sách cũ chẳng hạn.
Tuyệt vời nhất là khi lật giở những trang sách cũ đã ngả vàng vì thời gian, hít hà mùi hương ngai ngái, hơi chua và đong đầy bụi. Tôi thường mua một lần cả chồng sách cao ngất, để dành đọc từ từ, nhiều khi thấy chỉ còn vài cuốn, liền lên mạng đặt mua ngay, kẻo sợ hết thì không có gì để đọc. Tôi từng thử xếp hết tất cả sách có trong tủ ra, chất thành một chồng cao đến ngang vai. Đó là niềm kiêu hãnh của tôi trong suốt nhiều năm liền. Và để duy trì niềm kiêu hãnh đó, tôi đã không ngừng mua thêm sách, chỉ chờ đến ngày nó cao hơn tôi. Đến lúc đó chắc tôi sẽ quay cuồng vì sung sướng mất.
Khi tôi rời mắt khỏi trang sách, bất giác tôi ngẩng đầu nhìn ra khung cửa sổ trước mặt. Trời hôm nay không có sao, gió thổi nhè nhẹ, mang theo mùi bơ thơm nức mũi từ cửa hàng bánh ngọt phía đối diện cuốn vào phòng tôi. Tôi nhìn xung quanh phòng, chẳng có gì nhiều, một chồng sách cao đến mức như muốn ngã ra làm đôi, một chiếc bàn con phía trên đặt lọ cắm bút, cái laptop HP lỗi thời hay đứng máy những lúc tôi soạn thảo văn bản, một cái tủ sắt để treo quần áo đi làm và chứa thêm mấy đôi giày thể thao. Tôi mỉm cười, trong lòng dâng lên cảm giác bình yên lạ lùng. Tôi biết nhiều người nghĩ tôi cô đơn, nhưng không sao, có tôi và sách, thế là đủ rồi!
Lắm lúc chán đời, tôi thường nằm dài ra chiếc bàn dài trên giảng đường, phía trên bục giảng, vị giáo sư già đang giảng giải một công thức toán học hóc búa, còn tôi lại mơ màng nghĩ đến cảnh tượng sẽ vĩ đại biết bao nếu tôi gục chết trên bàn làm việc khi vừa hoàn thành xong một tác phẩm, và sau đó nó trở thành một quyển sách kinh điển được đề cử giải Nobel. Chắc lúc đó dưới suối vàng tôi sẽ cười thỏa mãn đến ngoác cả mang tai.
Nhưng trước khi bị bà chủ nhà tịch thu chìa khóa phòng và đuổi cổ ra đường vì nợ tiền nhà quá lâu, tôi đã kịp lao ra ngoài để kiếm tiền.
Tôi là con gái tỉnh lị. Gia đình tôi đều làm nông, có chút đất đai và mẹ tôi muốn tôi nối nghiệp gia đình. Nhưng tôi không đồng ý với quan niệm đó, thế là bất chấp việc gia đình phản đối chuyện tôi đi học đại học xa, sau khi có kết quả đậu đại học, tôi vẫn cứ xách ba lô lên và đi. Hai năm sau đó, ba mẹ tôi ly dị. Tài sản chia đôi, cả hai người đều gặp riêng tôi và nói cùng một nội dung: tiền học và tiền sinh hoạt mỗi tháng sẽ được gửi đúng hạn vào tài khoản ngân hàng, dặn dò tôi hãy tự biết chăm sóc bản thân, đói phải biết ăn, khát phải tìm nước uống. Lúc ngồi trước mặt họ, thú thật tôi không có cảm giác gì rõ ràng, một chút đau lòng, một chút hoảng loạn, và vô vàn những cảm xúc hỗn tạp khác, có lẽ do tôi đã lớn rồi, những chuyện đến và đi trong cuộc sống ít nhiều đã có chút kinh nghiệm, hoặc do tôi quá sốc trước sự thật như trời giáng này, nhưng tôi không thể hiện gì, chỉ biết gật đầu theo từng lời họ nói.
Và thế là từ lúc đó, tôi không trở về nhà lần nào nữa. Hai ngày trước, ông bà tôi qua đời trong một tai nạn xe hơi. Tôi điếng người. Mỗi lần nghe đâu đó, khi người ta nhắc về hai chữ gia đình, tôi bàng hoàng nhận ra: bây giờ tôi đã trở thành trẻ mồ côi rồi. Ông bà, cha mẹ, những người tôi đã luôn tin chắc rằng sẽ mãi mãi ở bên cạnh tôi, giờ đây, từng người từng người rời đi. Bằng những cách khác nhau, bằng nhiều lý do khác nhau, nhưng điểm chung ở chỗ họ đều bỏ rơi tôi. Tôi đứng giữa căn nhà, bỗng chốc nhận ra tất cả chỉ là lời nói dối, không có điều gì trên cõi đời này là vĩnh viễn, cho đến một lúc nào đó, khi chúng ta nhận ra mình đang mất đi thứ gì đó, thì cũng là lúc chúng ta thành kẻ trắng tay.
Giống như rơi vào hố đen vũ trụ và bị cuốn trôi đến một thế giới khác. Hay là thế giới bỗng nhiên bị bao trùm bởi bóng tối trong những bộ phim khoa học viễn tưởng.
Tôi gần như không nói được gì hai tháng sau đó. Tôi cảm giác mình chỉ còn biết mở mắt và nhắm mắt. Đầu óc tôi hoàn toàn trống rỗng. Tôi luôn bị cơn buồn ngủ vây quanh, kéo lê tấm thân rệu rã nằm vật ra bất cứ nơi nào có thể chợp mắt.
Thực tình, tôi chỉ muốn ngủ một giấc, rồi khi tỉnh dậy, mọi thứ vờ như lúc ban đầu. Ba tôi mỗi sáng ngồi trên bàn cùng mẹ tôi ăn sáng trước đi làm, ông bà tập thể dục ngoài sân, còn tôi đang tự chơi trò trốn tìm, trốn vào tủ đựng chăn mềnh, qua khe cửa hẹp, khẽ khàng và thích thú theo dõi hoạt động của mọi người trong nhà. Cho đến khi tất cả chỉ còn là nỗi đau hằn sâu trong trái tim tôi và trong chính ngôi nhà này, chẳng còn ai khác ngoài tôi.
Gia đình nơi tôi đang làm gia sư cho con gái họ chuyển đi nơi khác. Thế là tôi mất việc. Trong một đêm tình cờ, tôi nhìn thấy được mẩu tin đăng tuyển nhân viên soát vé cho một rạp chiếu phim. Đó là một rạp chiếu phim nằm ở đường Altstadt thuộc một khu phố cổ nương mình bên bờ sông Rhein yên bình, cổ kính và hiền hoà. Mỗi độ mùa anh đào nở, trên trời, dưới đất là một màu hồng rực rỡ, đẹp đến mức khiến tôi như nín lặng. Những tán hoa vươn ra, bao trùm khắp không gian, tạo hình hình vòng cung như một đường hầm, khiến người ở dưới ngỡ như đang lạc vào thế giới thần tiên hay một studio nhân tạo nào đó.
Một buổi tối muộn mưa giăng một làn nước trắng xóa khắp thành phố, khi tôi đang đứng nép mình bên mái hiên của rạp chiếu phim để bắt chuyến xe bus cuối cùng về nhà trọ, tôi nhìn về phía cửa hàng bách hóa đối diện, một anh chàng mặc áo khoác đen, đội mũ lưỡi trai, đang ra sức vẫy tay về phía tôi. Tôi nhún vai, cười khì một cái. Tôi chắc rằng cậu ta nhầm người, bởi giữa thành phố Koeln gần một triệu người này, tôi chưa từng vô tình gặp được người quen bao giờ. Khi đèn xanh cho người đi bộ nhấp nháy, cậu ta băng vụt qua đường trong những giây cuối cùng, cảnh tượng đó khiến tôi một phen hú vía. Đứng trước mặt tôi là Kante, cậu bạn cùng khóa, ngồi trước tôi ba dãy bàn tính từ dưới đếm lên. Kante đã giúp đỡ tôi rất nhiều khi ở trường, trong lúc tôi quay về Việt Nam dự tang lễ ông bà.
- Đã lâu rồi không thấy cậu đến trường, chút nữa tớ quên mất trong lớp mình còn có cậu nữa đấy!
- Tớ đang bận tìm việc làm thêm. Khi nào ổn định sẽ quay lại.
- Tâm trạng cậu thì sao?
- Tớ sẽ nhanh ổn thôi. Cậu ghé qua nhà mình uống tách trà chứ? Tớ vẫn chưa cám ơn cậu tử tế.
- Để lần khác đi. Bây giờ tớ có chút việc. Khi nào gặp lại tớ sẽ có tin tốt cho cậu đấy. Bây giờ thì chào.
Tôi giật mình, không biết cậu bạn này đang nghĩ gì.
Chỗ của tôi trong phòng chiếu là đứng ở ngay lối vào, khi có khách đến, tôi chỉ việc nói “Cảm phiền cho tôi xem qua vé”, sau đó nhìn qua một lượt rồi mỉm cười trả lại vé cho họ. Tôi đứng bên lề, chậm rãi quan sát mọi thứ diễn ra trong bóng tối, không tham dự, không phản ứng, giống như mọi chuyện diễn ra chẳng hề liên quan đến tôi. Việc của tôi là tĩnh lặng quan sát. Giống như cách tôi sống gần hai mươi năm nay. Bằng cách đứng yên lặng quan sát, không phản ứng theo bất kì hoạt động nào theo những người có cùng chuẩn mực xã hội như tôi. Tôi lặng lẽ theo dõi. Hoặc là do tôi không biết cách phản ứng cho phù hợp với hoàn cảnh, hoặc do những điều họ nói quá ư là vô vị. Tôi thấy họ cứ nông cạn và ấu trĩ khi nói về ai đó, chỉ tin vào điều mình nhìn thấy mà không chịu nghĩ sâu hơn, nếu chi ít họ có chịu khó vạch lá tìm sâu, thì cũng chỉ lo đào bới những thứ có thể xoáy vào nỗi đau của người khác, nhằm làm thoả mãn bản tính tò mò của họ, chứ chẳng để tâm xem sự thật là mô tê gì. Thế nên, tôi cứ làm một bức tường trắng, mặc cho họ tô vẽ thứ họ muốn, mặc cho họ phán xét và bình phẩm tôi thậm tệ, tôi chưa từng lên tiếng giải thích bất kì điều gì.
Rạp chỉ chiếu những bộ phim thuộc hàng năm hai nghìn có lẻ, hoặc xưa hơn thế. Vậy nên rạp chẳng bao giờ có lãi. Mọi người nghĩ rằng những người lựa chọn đến một rạp chiếu phim chuyên chiếu những bộ phim thuộc về thế kỉ trước là để hoài niệm, để tìm về các giá trị nhân văn xưa cũ được lồng ghép trong từng phân cảnh có khả năng khiến người xem lặp tức có thể rơi nước mắt. Nhưng không, đa số khách xem phim là những đôi tình nhân trẻ tuổi, ăn mặc lòe loẹt, nực nồng mùi nước hoa rẻ tiền được bán đầy rẫy trong các khu bách hóa trung tâm. Họ thường chọn những suất phim khuya, tầm mười giờ đổ đi, mua ba hoặc bốn ghế liền nhau, cởi áo khoác, rồi như những con giun đất đang quấn lấy nhau dưới lớp đất tối mù, họ trao cho nhau những lời yêu thương sáo rỗng, những câu thề thốt kệch cỡm thể hiện cho việc họ đã xem quá nhiều phim ngôn tình ẩm ương.
Tôi nhìn lên màn hình lớn đang chiếu đến phân cảnh huyền thoại khi Leonardo Dicaprio và Kate Winslet đứng trên đầu tàu và dang tay ra trong phim Titanic, họ đâu có ngờ rằng ở một đất nước không xa cách lắm, người ta xem phim của họ mà rạo rực như đang xem phim cấp ba có đầy những cảnh nhục dục thô thiển.
Có một người, còn kì lạ hơn những khách xem phim ở rạp chiếu phim tôi làm, là Kante. Lần đó, khi còn đang trong bộ dạng ngáy ngủ, tôi nghe tiếng đập cửa thùm thụp. Tôi chỉ kịp vớ lấy cái áo khoác mặc lên người, vuốt sơ qua mái tóc rối, tôi kéo khóa cửa.
- Chào buổi sáng. À, có chuyện gì không?
- Tớ chỉ thuận tiện tạt ngang đây thôi. Bây giờ tớ phải nói nhanh rồi còn có việc. Cậu sẽ đến nhà tớ sống chứ? Tớ đã kể chuyện gia đình cậu cho mẹ tớ nghe, và bà ấy đã bật khóc đấy. Bà ấy bảo hiện giờ không thích hợp để cậu sống một mình, sẽ bất tiện và cô đơn lắm. Dù sao nhà tớ chỉ có hai người, tớ và mẹ lại thường xuyên vắng nhà, có cậu đến sẽ đỡ cô quạnh hơn.
- Gì cơ? – Tôi hốt hoảng hỏi lại.
- Cuối tuần này tớ sẽ đến đón cậu. Đừng có bỏ trốn đấy! Thôi chào nhé!
Trước khi bước xuống cầu thang, Kante xoay người lại hỏi một lần nữa.
- Cậu sẽ đến chứ?
Tôi mỉm cười, gật đầu với cậu.
Kante vẫy tay chào tôi, cậu nhảy chân sáo đi xuống lầu, còn khẽ ngân nga một giai điệu nào đấy, nom như một đức trẻ vừa hoàn thành xong nhiệm vụ cao cả được cha mẹ giao phó.
- Tớ sẽ đến mà. Vì bây giờ chẳng còn ai để tớ nương tựa nữa rồi. – Tôi tự nhủ với chính mình.
Tối chủ nhật, Kante đến nhà rước tôi như đã hẹn. Không đợi tôi nhờ vả, Kante tự động bước vào trong nhà, lần lượt khuân từng thùng cát tông để vào cốp xe, bảo tôi ra trước để cậu ta dọn dẹp sơ lại và khóa cửa. Kante luôn chủ động làm mọi thứ, cậu ấy giúp đỡ tôi tự nhiên như thể chúng tôi đã là bạn của nhau từ rất lâu rồi, chứ chẳng phải đây là lần đầu tiên tôi nhìn rõ mặt cậu ta.
Lúc ra khỏi thang máy, tôi chỉ dám bước đi chậm rãi, lững thững đi sau Kante.
Cậu đưa tay bấm chuông. Tamaki ra mở cửa.
- Kalimyn đã đến rồi này! Mời vào!
Tôi ôm lấy bà, hôn lướt qua má bà đúng chuẩn kiểu chào phương Tây. Tamaki vỗ nhè nhẹ vào lưng tôi, giống như người mẹ chào mừng đứa con gái duy nhất đi xa trở về.
Tôi không thích cách người ta trang trí nhà cửa ở châu Âu, chúng kiểu cách và trang trọng quá thể, nhưng lại chẳng mang đến chút cảm giác ấm cúng của một gia đình. Nhà Kante thì lại khác, ngôi nhà tràn ngập ánh sáng vàng be, một cái sô pha màu xanh thẫm đặt giữa phòng khách, nó thoải mái đến mức vừa đặt lưng xuống là bạn có thể ngay lập tức ngủ thiếp đi. Nhà bếp được đặt một tủ kính lớn, do đó có thể nhìn thấy rõ từng đường nét hoa văn được chạm khắc tinh tế trên những chiếc đĩa gốm sứ Trung Quốc, đồ đạc trong nhà bếp cũng được sắp xếp hết sức khoa học, nên chỉ cần với tay là lấy được thứ mình muốn.
Khi tôi kết thúc chuyến thăm quan ngôi nhà, tôi quay lại ghế sô pha, ngồi bần thần. Ngồi ở một nơi lần đầu đến, gặp những người xa lạ, tôi thấy mình sao lạc lõng quá thể. Kante đã ra ngoài làm thêm, cậu làm việc cho một cửa hàng 24h.
Cảm giác cõi đời này chẳng có ai kề cận, dù được tự do làm điều mình thích, sống như cách mình muốn, nhưng chẳng làm tôi vui vẻ chút nào. Đó là cảm giác choáng ngợp siết chặt lấy tôi.
Tamaki ngồi xuống cạnh tôi, bà đưa cho tôi một tách trà lài thơm ngát.
- Cháu thấy ổn chứ? Có gì bất tiện cháu cứ nói ra nhé.
- Mọi thứ rất tuyệt ạ. Sau này phải làm phiền cô rồi!
- Ngôi nhà này tuy nhỏ, nhưng vẫn luôn thừa rất nhiều khoảng trống. Cô đã cố lấp đầy chúng bằng nhiều cách khác nhau nhưng cốt lại vẫn vô ích. Vật chất không phải là thứ cô tìm kiếm bấy lâu nay, mà là con người. Ai đó có thể đến đây, giúp ngôi nhà này bớt được vài phần lạnh lẽo.
Tôi như nuốt lấy từng lời Tamaki nói. Cách bà nói về mái ấm của mình, khiến tôi có cảm giác bà đang sống cô đơn một mình vậy.
Tamaki chậm rãi nói tiếp.
- Cô mong rằng cô cũng đang làm thế với cháu.
Thái độ không quá nồng nhiệt cũng không quá lạnh lùng của Kante và và Tamaki làm cho cho tinh thần tôi như được vỗ về sau những ngày chống chọi với bão lớn và gần như kiệt sức.
Dạo gần đây rạp chiếu phim có một vị khách rất đặc biệt. Cô ấy hay đến vào lúc rạp bắt đầu suất chiếu lúc sáu giờ. Cô mua năm ghế liền nhau, dựng tay vịn lên, rồi nằm ngủ. Lúc đầu tôi cũng không để ý, cho đến khi phát xong suất chiếu cuối cùng, tôi đi xung quanh dọn rác thì thấy một cô gái nằm ở băng ghế giữa, hai tay khoanh trước ngực, mắt nhắm nghiền, còn phát ra tiếng ngáy khì khì. Tôi khẽ chạm vào vai cô ấy, cô choàng mở mắt, trân trân nhìn tôi, giống như đang nằm mơ thấy ác mộng và khi con quái vật sắp nuốt chửng cô thì được người khác đánh thức. Những lần khác, khi nghe thấy giai điệu quen thuộc thường được phát vào đoạn kết, cô đã tự tỉnh dậy, vò xù tóc mình lên, dụi dụi mắt, rồi chụp cái mũ rộng vành lên đầu và đi ra khỏi phòng chiếu.
Có lần tôi bắt gặp cô khóc khi nhìn thấy cảnh Malda bị bán vào một nhà chứa chỉ vì cha cô không đủ tiền mua thuốc phiện. Tiếng cô nấc nghẹn xen lẫn những động chạm da thịt của những đôi tình nhân ngồi xung quanh, trông cô cứ như một nữ đồng trinh sống ở nước Ý vào những năm đầy rẫy nhục dục nhơ nhuốt.
Tôi đã kể về người khách đặc biệt cho Kante nghe. Cậu chậm rãi bóp nát gói mì tôm trong tay, bóc giở nó ra, đưa cho tôi một mẩu mì sống, rồi trút hơn phân nữa còn lại vào miệng.
- Có thể cô ấy đang cố lẩn trốn. Chúng ta vẫn thường cố tình nấn ná đâu đó quá lâu để tránh trở về nơi mà chúng ta không muốn về sớm ngoặc ngược lại, đó là nơi duy nhất cô ấy có thể ở lại. – Kante bình thản nói.
- Nơi đó có thể là gì?
- Nhà của cô ấy chẳng hạn. Đôi lúc tớ cũng như vậy, thà ngồi gặm bánh mì một mình trong công viên còn hơn là về nhà sớm và phải tự nấu ăn. Hôm qua là ngày duy nhất trong suốt tám năm mẹ tớ có mặt ở nhà vào buổi tối. Bà làm việc ở một quán bar. Vào những giờ mà những người mẹ người vợ bắt đầu vào bếp và chuẩn bị bữa tối thì cũng là lúc mẹ tớ đang vội vã trang điểm và ra khỏi nhà trước sáu giờ tối. Đến khi tớ thức dậy vào buổi sáng thì cả nhà sẽ nồng nặc mùi rượu, thuốc lá, nước hoa, mùi nôn mửa của khách chơi trộn lẫn vào nhau giăng khắp nơi. Còn mẹ tớ sẽ nằm sõng soài trên ghế sô pha, quần áo xô lệch và đầu tóc bù xù. Tớ chán ghét kinh khủng cảnh tượng ấy, thế nên tớ cũng ở suốt bên ngoài.
Tôi ngưng đặt câu hỏi và ngấm ngầm hiểu ra. Rốt cuộc thì ai cũng có nơi phải trở về, cô gái ấy, tôi và Kante. Nơi mà dẫu chán ghét ra làm sao, chúng tôi vẫn phải trở về sau những giờ tăng ca căng não, một cuộc họp dai dẳng mấy tiếng đồng hồ, một nơi ồn ào và xô bồ như ở quán bar, chúng tôi vẫn cần một nơi danh chính ngôn thuận để đặt lưng.
Đôi lúc trong khi chờ đến suất chiếu của mình, cô ngồi trên dãy ghế chờ phía bên ngoài phòng chiếu, hai đùi khép chặt, đặt một quyển sổ lên trên và cắm cúi ghi chép gì đó. Một tay cô viết, tay còn lại khép hờ và khum thành một vòng cung che phía trên quyển sổ, chắc cô sợ ai đấy đi ngang qua sẽ đọc được. Tôi tỉ mẩn quan sát cô, một cô gái có lớp tàn nhang dày đặc hai bên má, dáng người thanh mảnh, xương quai xanh ẩn hiện qua lớp áo thun, chiếc quần bò màu xanh rêu, búi tóc thật cao để lộ chiếc cổ cao thon thả. Hồi lâu, cô ngẩng mặt lên, nhìn thẫn thờ vào tấm bảng dán poster phim, thở hắt ra, rồi lại cúi đầu viết tiếp. Tôi muốn bắt chuyện hỏi thăm cô vài câu, rằng tại sao cô luôn ngủ mỗi khi đến rạp chiếu phim, tại sao cô hay đi một mình và cô viết nhật kí về ai đấy. Nhưng tôi cảm thấy bản thân thật xấu xa với những ý nghĩ đó, chẳng khác nào một kẻ thích lo chuyện bao đồng và soi mói chuyện đời tư người khác.
Những lần tiếp theo đó, tôi như người gác cổng, canh chừng giấc ngủ cho cô gái nhỏ. Tôi muốn đuổi cổ hết những kẻ nhân danh tình yêu để đến đây làm mấy trò ô uế, để giữ cho giấc ngủ của cô được nhịp nhàng. Tôi đứng cách cô vài số ghế, bỗng chuông điện thoại vang lên, cô bật dậy, nhìn vào màn hình điện thoại hồi lâu rồi lao ra ngoài. Lúc lướt qua tôi, quyển sổ tay cô cầm va vào thành cửa rơi xuống đất, cô ngoái đầu nhìn tôi ái ngại, chần chừ giây lát rồi chạy biến đi.
Tôi muốn lao theo cô, nhưng không thể bỏ rạp. Đến cuối ngày, tôi trở về nhà Kante, ngồi trên ghế sô pha, lật giở từng trang nhật kí.
“Ngày… tháng… năm…
Đây không biết là lần thứ bao nhiêu tôi đến rạp chiếu phim này. Đây là nơi duy nhất tôi có thể yên giấc ngủ mà không bị những cơn ác mộng quấy phá. Bóng tối thật an toàn và ấm áp biết bao. Trong ánh sáng yếu ớt, những âm thanh phát ra từ những bộ phim cũ, đều đều chầm chậm, là những thứ không bức ép tôi như thế giới ngoài kia.
Tôi và Kens đã chia tay nhau lâu rồi, lâu đến mức tôi chẳng nhớ nổi là từ khi nào. Anh đã bước đi về phía có thứ ánh sáng rực rỡ chói mắt và không còn muốn ẩn náu trong bóng tối cùng tôi nữa. Tôi thấy ảnh của anh được in trên những tấm áp phích, dán khắp nơi trong thành phố. Tôi đã cố lẩn trốn anh. Nhưng không được, bằng một cách vô tình, anh khiến tôi phải luôn nhìn thấy anh. Tôi nhớ anh nhiều lắm.
Kể từ khi anh bỏ đi, tôi không tài nào chợp mắt được. Ba đốt hết những tấm ảnh tôi chụp cùng anh, vứt điện thoại của tôi, để ngăn cho tôi không nhớ về anh. Anh cũng đã thay ổ khóa, tôi đã cố trèo vào nhà anh từ cửa sổ sân vườn và ngã gãy chân. Tôi vừa đau vừa tủi, tôi cố lết ra đường lớn, hét thật to mong rằng có ai đó xung quanh và giúp tôi đến bệnh viện. Nhưng lúc ấy là ba giờ sáng, Kens không có nhà, cũng không có ai gần đó, tôi trong tư thế mặt đầm đìa máu, khóc nức nở đến tận trời sáng. Tôi không ngừng khản giọng cầu xin: “Kens ơi, xin anh hãy xuất hiện đi. Làm ơn đi mà!”
Ngày… tháng… năm…
Ba và tôi chuyển đến thành phố này. Lần đấy, khi tôi đang lang thang trên đường, tôi nhìn thấy Kens bước vào rạp chiếu phim này. Tôi đuổi theo anh vào bên trong, ở hàng ghế giữa, ghế số 3, anh mặc một chiếc áo choàng che kín cổ, tôi ngồi phía bên phải cách anh hai ghế, lặng lẽ quan sát anh, khoảng cách này gần đến mức tôi có thể nhìn thấy rõ từng cử chỉ của anh. Trên màn ảnh lớn, Alsa và Colopin đang đứng trước một vực sâu, phía sau là quân lính đang vây quanh họ. Nếu Alsa và Colopin cùng nhau nhảy xuống vực, họ sẽ mãi mãi ở cạnh nhau. Nhưng, Colopin không muốn như thế, ánh mắt anh nhìn Alsa cho tôi biết, anh không muốn cô chết cùng anh, cô xứng đáng được sống. Thế rồi, Colopin đẩy Alsa vào đám quân lính, không quay lại nhìn cô thêm phút giây nào, bước lên phía trước và nhảy xuống vực. Tiếng gào khóc thảm thiết của Alsa như xé nát cõi lòng tôi. Tôi đã khóc và… tôi nghe thấy tiếng nấc rất khẽ của Kens. Chúng tôi đã ở cùng một không gian, nhìn thấy những gì người kia thấy, khóc cùng nhau, thế là đủ rồi.
Tôi lấy quyển sổ tay trong túi ra che kín mặt lúc Kens lướt ngang qua. Anh không nhận ra điều gì bất thường và cứ thế đi thẳng. Thật tốt vì tôi đã không bị phát hiện. Đúng! Ánh sáng rực rỡ phía trước thuộc về anh, và vị trí của tôi là đây, hàng ghế khán giả, ủng hộ và yêu thương anh…”
Một năm trôi qua, cuốn sổ vẫn còn nằm yên bên trong thùng thủy tinh đựng đồ khách đánh rơi. Ông chủ nói sẽ sang rạp cho một người khác. Tôi hỏi đó là ai, ông chỉ bảo là một diễn viên nổi tiếng do một lần ghé qua xem phim trong giờ giải lao ở phim trường, cảm thấy yêu thích không gian ở đây nên ngỏ lời muốn mua lại. Tất cả nhân viên sẽ được tiếp tục làm việc nếu muốn. Mọi thứ sẽ được giữ nguyên vị trí, chỉ trừ một sự thay đổi là vào thứ sáu của tuần cuối cùng trong tháng, ở hàng ghế giữa, ghế số 3 và số 5 sẽ không bán vé.
Người chủ mới chưa từng ghé qua rạp lần nào, mọi công việc được nhân viên trao đổi qua email. Lần đó, rạp dán poster bộ phim mới ra mắt, khá nổi tiếng gần đây. Trong poster, một chàng trai đứng tựa người vào thanh chắn vỉa hè, ánh mắt dán xuống mặt đường, từng làn khói trắng mờ ảo uốn lượn xung quanh khuôn mặt điển trai nổi bật với mái tóc màu đỏ rượu vang. Trong buồng kính, tôi nhìn thấy một cô gái quấn khăn quàng cổ che kín nửa mặt, tiến đến gần tấm poster, lẩm nhẩm đọc gì đó. Cô đưa tay chạm vào khuôn mặt của nam diễn viên, ánh mắt dịu dàng, mỉm cười bâng quơ. Cô gái đang nghĩ gì thế? Nghĩ đến người mình yêu hay người mình muốn rủ xem phim cùng?
Còn cô gái ấy, khi nào em ghé qua, để tôi còn trả lại kỉ vật đây?
Buổi trưa đi đến tiệm bánh làm thêm.
Buổi chiều đi dạy thêm ở quận 13.
Tối về nhà nên đi ăn hay ở nhà nấu cơm đây?
Tháng này chưa đóng tiền nhà nữa.
Còn gì nữa nhỉ?
Mỗi ngày, khi tôi còn chưa kịp ngả lưng xuống giường, đã vội lẩm nhẩm thời khóa biểu xem ngày mai phải làm những gì. Tôi từ lâu đã nhận ra, việc ngồi hàng tiếng đồng hồ trên băng ghế gỗ, tay không ngừng ghi ghi chép chép những công thức mà cả đời này tôi không chắc khi nào mình sẽ dùng đến, tầm mắt không được rời khỏi bảng xanh, không được phản ứng mỗi khi thầy cô đang giảng bài, mặc dù đôi khi họ nói điều gì đó mà tôi không tài nào hiểu nổi, đó không phải công việc thuộc về một cô gái như tôi.
Thứ có thể khiến tôi ngồi lì hàng giờ đồng hồ mà không biết chán là thế giới bên trong những trang sách. Tất nhiên, ngoại trừ sách giáo khoa.
Nếu ai cũng hiểu được sự kì diệu của những con chữ thì hay biết mấy. Mà tốt hơn hết là loài người nên đọc nhiều sách vào, rồi hành xử như trong truyện cũng được. Như thế cuộc sống sẽ bớt được vài phần nhẫn tâm và lạnh nhạt, vì đa số cốt truyện rồi sẽ dẫn đến kết thúc có hậu. Nhưng tôi còn yêu cả những quyển sách cũ kĩ, chứa đầy bụi mỗi khi vỗ vỗ vào bìa của chúng, được cất kĩ vào một góc nào đó trên những cái kệ gỗ trong thư viện thành phố, dưới nhà kho, bên trong một nhà sách cũ chẳng hạn.
Tuyệt vời nhất là khi lật giở những trang sách cũ đã ngả vàng vì thời gian, hít hà mùi hương ngai ngái, hơi chua và đong đầy bụi. Tôi thường mua một lần cả chồng sách cao ngất, để dành đọc từ từ, nhiều khi thấy chỉ còn vài cuốn, liền lên mạng đặt mua ngay, kẻo sợ hết thì không có gì để đọc. Tôi từng thử xếp hết tất cả sách có trong tủ ra, chất thành một chồng cao đến ngang vai. Đó là niềm kiêu hãnh của tôi trong suốt nhiều năm liền. Và để duy trì niềm kiêu hãnh đó, tôi đã không ngừng mua thêm sách, chỉ chờ đến ngày nó cao hơn tôi. Đến lúc đó chắc tôi sẽ quay cuồng vì sung sướng mất.
Khi tôi rời mắt khỏi trang sách, bất giác tôi ngẩng đầu nhìn ra khung cửa sổ trước mặt. Trời hôm nay không có sao, gió thổi nhè nhẹ, mang theo mùi bơ thơm nức mũi từ cửa hàng bánh ngọt phía đối diện cuốn vào phòng tôi. Tôi nhìn xung quanh phòng, chẳng có gì nhiều, một chồng sách cao đến mức như muốn ngã ra làm đôi, một chiếc bàn con phía trên đặt lọ cắm bút, cái laptop HP lỗi thời hay đứng máy những lúc tôi soạn thảo văn bản, một cái tủ sắt để treo quần áo đi làm và chứa thêm mấy đôi giày thể thao. Tôi mỉm cười, trong lòng dâng lên cảm giác bình yên lạ lùng. Tôi biết nhiều người nghĩ tôi cô đơn, nhưng không sao, có tôi và sách, thế là đủ rồi!
Lắm lúc chán đời, tôi thường nằm dài ra chiếc bàn dài trên giảng đường, phía trên bục giảng, vị giáo sư già đang giảng giải một công thức toán học hóc búa, còn tôi lại mơ màng nghĩ đến cảnh tượng sẽ vĩ đại biết bao nếu tôi gục chết trên bàn làm việc khi vừa hoàn thành xong một tác phẩm, và sau đó nó trở thành một quyển sách kinh điển được đề cử giải Nobel. Chắc lúc đó dưới suối vàng tôi sẽ cười thỏa mãn đến ngoác cả mang tai.
Nhưng trước khi bị bà chủ nhà tịch thu chìa khóa phòng và đuổi cổ ra đường vì nợ tiền nhà quá lâu, tôi đã kịp lao ra ngoài để kiếm tiền.
Tôi là con gái tỉnh lị. Gia đình tôi đều làm nông, có chút đất đai và mẹ tôi muốn tôi nối nghiệp gia đình. Nhưng tôi không đồng ý với quan niệm đó, thế là bất chấp việc gia đình phản đối chuyện tôi đi học đại học xa, sau khi có kết quả đậu đại học, tôi vẫn cứ xách ba lô lên và đi. Hai năm sau đó, ba mẹ tôi ly dị. Tài sản chia đôi, cả hai người đều gặp riêng tôi và nói cùng một nội dung: tiền học và tiền sinh hoạt mỗi tháng sẽ được gửi đúng hạn vào tài khoản ngân hàng, dặn dò tôi hãy tự biết chăm sóc bản thân, đói phải biết ăn, khát phải tìm nước uống. Lúc ngồi trước mặt họ, thú thật tôi không có cảm giác gì rõ ràng, một chút đau lòng, một chút hoảng loạn, và vô vàn những cảm xúc hỗn tạp khác, có lẽ do tôi đã lớn rồi, những chuyện đến và đi trong cuộc sống ít nhiều đã có chút kinh nghiệm, hoặc do tôi quá sốc trước sự thật như trời giáng này, nhưng tôi không thể hiện gì, chỉ biết gật đầu theo từng lời họ nói.
Và thế là từ lúc đó, tôi không trở về nhà lần nào nữa. Hai ngày trước, ông bà tôi qua đời trong một tai nạn xe hơi. Tôi điếng người. Mỗi lần nghe đâu đó, khi người ta nhắc về hai chữ gia đình, tôi bàng hoàng nhận ra: bây giờ tôi đã trở thành trẻ mồ côi rồi. Ông bà, cha mẹ, những người tôi đã luôn tin chắc rằng sẽ mãi mãi ở bên cạnh tôi, giờ đây, từng người từng người rời đi. Bằng những cách khác nhau, bằng nhiều lý do khác nhau, nhưng điểm chung ở chỗ họ đều bỏ rơi tôi. Tôi đứng giữa căn nhà, bỗng chốc nhận ra tất cả chỉ là lời nói dối, không có điều gì trên cõi đời này là vĩnh viễn, cho đến một lúc nào đó, khi chúng ta nhận ra mình đang mất đi thứ gì đó, thì cũng là lúc chúng ta thành kẻ trắng tay.
Giống như rơi vào hố đen vũ trụ và bị cuốn trôi đến một thế giới khác. Hay là thế giới bỗng nhiên bị bao trùm bởi bóng tối trong những bộ phim khoa học viễn tưởng.
Tôi gần như không nói được gì hai tháng sau đó. Tôi cảm giác mình chỉ còn biết mở mắt và nhắm mắt. Đầu óc tôi hoàn toàn trống rỗng. Tôi luôn bị cơn buồn ngủ vây quanh, kéo lê tấm thân rệu rã nằm vật ra bất cứ nơi nào có thể chợp mắt.
Thực tình, tôi chỉ muốn ngủ một giấc, rồi khi tỉnh dậy, mọi thứ vờ như lúc ban đầu. Ba tôi mỗi sáng ngồi trên bàn cùng mẹ tôi ăn sáng trước đi làm, ông bà tập thể dục ngoài sân, còn tôi đang tự chơi trò trốn tìm, trốn vào tủ đựng chăn mềnh, qua khe cửa hẹp, khẽ khàng và thích thú theo dõi hoạt động của mọi người trong nhà. Cho đến khi tất cả chỉ còn là nỗi đau hằn sâu trong trái tim tôi và trong chính ngôi nhà này, chẳng còn ai khác ngoài tôi.
Gia đình nơi tôi đang làm gia sư cho con gái họ chuyển đi nơi khác. Thế là tôi mất việc. Trong một đêm tình cờ, tôi nhìn thấy được mẩu tin đăng tuyển nhân viên soát vé cho một rạp chiếu phim. Đó là một rạp chiếu phim nằm ở đường Altstadt thuộc một khu phố cổ nương mình bên bờ sông Rhein yên bình, cổ kính và hiền hoà. Mỗi độ mùa anh đào nở, trên trời, dưới đất là một màu hồng rực rỡ, đẹp đến mức khiến tôi như nín lặng. Những tán hoa vươn ra, bao trùm khắp không gian, tạo hình hình vòng cung như một đường hầm, khiến người ở dưới ngỡ như đang lạc vào thế giới thần tiên hay một studio nhân tạo nào đó.
Một buổi tối muộn mưa giăng một làn nước trắng xóa khắp thành phố, khi tôi đang đứng nép mình bên mái hiên của rạp chiếu phim để bắt chuyến xe bus cuối cùng về nhà trọ, tôi nhìn về phía cửa hàng bách hóa đối diện, một anh chàng mặc áo khoác đen, đội mũ lưỡi trai, đang ra sức vẫy tay về phía tôi. Tôi nhún vai, cười khì một cái. Tôi chắc rằng cậu ta nhầm người, bởi giữa thành phố Koeln gần một triệu người này, tôi chưa từng vô tình gặp được người quen bao giờ. Khi đèn xanh cho người đi bộ nhấp nháy, cậu ta băng vụt qua đường trong những giây cuối cùng, cảnh tượng đó khiến tôi một phen hú vía. Đứng trước mặt tôi là Kante, cậu bạn cùng khóa, ngồi trước tôi ba dãy bàn tính từ dưới đếm lên. Kante đã giúp đỡ tôi rất nhiều khi ở trường, trong lúc tôi quay về Việt Nam dự tang lễ ông bà.
- Đã lâu rồi không thấy cậu đến trường, chút nữa tớ quên mất trong lớp mình còn có cậu nữa đấy!
- Tớ đang bận tìm việc làm thêm. Khi nào ổn định sẽ quay lại.
- Tâm trạng cậu thì sao?
- Tớ sẽ nhanh ổn thôi. Cậu ghé qua nhà mình uống tách trà chứ? Tớ vẫn chưa cám ơn cậu tử tế.
- Để lần khác đi. Bây giờ tớ có chút việc. Khi nào gặp lại tớ sẽ có tin tốt cho cậu đấy. Bây giờ thì chào.
Tôi giật mình, không biết cậu bạn này đang nghĩ gì.
Chỗ của tôi trong phòng chiếu là đứng ở ngay lối vào, khi có khách đến, tôi chỉ việc nói “Cảm phiền cho tôi xem qua vé”, sau đó nhìn qua một lượt rồi mỉm cười trả lại vé cho họ. Tôi đứng bên lề, chậm rãi quan sát mọi thứ diễn ra trong bóng tối, không tham dự, không phản ứng, giống như mọi chuyện diễn ra chẳng hề liên quan đến tôi. Việc của tôi là tĩnh lặng quan sát. Giống như cách tôi sống gần hai mươi năm nay. Bằng cách đứng yên lặng quan sát, không phản ứng theo bất kì hoạt động nào theo những người có cùng chuẩn mực xã hội như tôi. Tôi lặng lẽ theo dõi. Hoặc là do tôi không biết cách phản ứng cho phù hợp với hoàn cảnh, hoặc do những điều họ nói quá ư là vô vị. Tôi thấy họ cứ nông cạn và ấu trĩ khi nói về ai đó, chỉ tin vào điều mình nhìn thấy mà không chịu nghĩ sâu hơn, nếu chi ít họ có chịu khó vạch lá tìm sâu, thì cũng chỉ lo đào bới những thứ có thể xoáy vào nỗi đau của người khác, nhằm làm thoả mãn bản tính tò mò của họ, chứ chẳng để tâm xem sự thật là mô tê gì. Thế nên, tôi cứ làm một bức tường trắng, mặc cho họ tô vẽ thứ họ muốn, mặc cho họ phán xét và bình phẩm tôi thậm tệ, tôi chưa từng lên tiếng giải thích bất kì điều gì.
Rạp chỉ chiếu những bộ phim thuộc hàng năm hai nghìn có lẻ, hoặc xưa hơn thế. Vậy nên rạp chẳng bao giờ có lãi. Mọi người nghĩ rằng những người lựa chọn đến một rạp chiếu phim chuyên chiếu những bộ phim thuộc về thế kỉ trước là để hoài niệm, để tìm về các giá trị nhân văn xưa cũ được lồng ghép trong từng phân cảnh có khả năng khiến người xem lặp tức có thể rơi nước mắt. Nhưng không, đa số khách xem phim là những đôi tình nhân trẻ tuổi, ăn mặc lòe loẹt, nực nồng mùi nước hoa rẻ tiền được bán đầy rẫy trong các khu bách hóa trung tâm. Họ thường chọn những suất phim khuya, tầm mười giờ đổ đi, mua ba hoặc bốn ghế liền nhau, cởi áo khoác, rồi như những con giun đất đang quấn lấy nhau dưới lớp đất tối mù, họ trao cho nhau những lời yêu thương sáo rỗng, những câu thề thốt kệch cỡm thể hiện cho việc họ đã xem quá nhiều phim ngôn tình ẩm ương.
Tôi nhìn lên màn hình lớn đang chiếu đến phân cảnh huyền thoại khi Leonardo Dicaprio và Kate Winslet đứng trên đầu tàu và dang tay ra trong phim Titanic, họ đâu có ngờ rằng ở một đất nước không xa cách lắm, người ta xem phim của họ mà rạo rực như đang xem phim cấp ba có đầy những cảnh nhục dục thô thiển.
Có một người, còn kì lạ hơn những khách xem phim ở rạp chiếu phim tôi làm, là Kante. Lần đó, khi còn đang trong bộ dạng ngáy ngủ, tôi nghe tiếng đập cửa thùm thụp. Tôi chỉ kịp vớ lấy cái áo khoác mặc lên người, vuốt sơ qua mái tóc rối, tôi kéo khóa cửa.
- Chào buổi sáng. À, có chuyện gì không?
- Tớ chỉ thuận tiện tạt ngang đây thôi. Bây giờ tớ phải nói nhanh rồi còn có việc. Cậu sẽ đến nhà tớ sống chứ? Tớ đã kể chuyện gia đình cậu cho mẹ tớ nghe, và bà ấy đã bật khóc đấy. Bà ấy bảo hiện giờ không thích hợp để cậu sống một mình, sẽ bất tiện và cô đơn lắm. Dù sao nhà tớ chỉ có hai người, tớ và mẹ lại thường xuyên vắng nhà, có cậu đến sẽ đỡ cô quạnh hơn.
- Gì cơ? – Tôi hốt hoảng hỏi lại.
- Cuối tuần này tớ sẽ đến đón cậu. Đừng có bỏ trốn đấy! Thôi chào nhé!
Trước khi bước xuống cầu thang, Kante xoay người lại hỏi một lần nữa.
- Cậu sẽ đến chứ?
Tôi mỉm cười, gật đầu với cậu.
Kante vẫy tay chào tôi, cậu nhảy chân sáo đi xuống lầu, còn khẽ ngân nga một giai điệu nào đấy, nom như một đức trẻ vừa hoàn thành xong nhiệm vụ cao cả được cha mẹ giao phó.
- Tớ sẽ đến mà. Vì bây giờ chẳng còn ai để tớ nương tựa nữa rồi. – Tôi tự nhủ với chính mình.
Tối chủ nhật, Kante đến nhà rước tôi như đã hẹn. Không đợi tôi nhờ vả, Kante tự động bước vào trong nhà, lần lượt khuân từng thùng cát tông để vào cốp xe, bảo tôi ra trước để cậu ta dọn dẹp sơ lại và khóa cửa. Kante luôn chủ động làm mọi thứ, cậu ấy giúp đỡ tôi tự nhiên như thể chúng tôi đã là bạn của nhau từ rất lâu rồi, chứ chẳng phải đây là lần đầu tiên tôi nhìn rõ mặt cậu ta.
Lúc ra khỏi thang máy, tôi chỉ dám bước đi chậm rãi, lững thững đi sau Kante.
Cậu đưa tay bấm chuông. Tamaki ra mở cửa.
- Kalimyn đã đến rồi này! Mời vào!
Tôi ôm lấy bà, hôn lướt qua má bà đúng chuẩn kiểu chào phương Tây. Tamaki vỗ nhè nhẹ vào lưng tôi, giống như người mẹ chào mừng đứa con gái duy nhất đi xa trở về.
Tôi không thích cách người ta trang trí nhà cửa ở châu Âu, chúng kiểu cách và trang trọng quá thể, nhưng lại chẳng mang đến chút cảm giác ấm cúng của một gia đình. Nhà Kante thì lại khác, ngôi nhà tràn ngập ánh sáng vàng be, một cái sô pha màu xanh thẫm đặt giữa phòng khách, nó thoải mái đến mức vừa đặt lưng xuống là bạn có thể ngay lập tức ngủ thiếp đi. Nhà bếp được đặt một tủ kính lớn, do đó có thể nhìn thấy rõ từng đường nét hoa văn được chạm khắc tinh tế trên những chiếc đĩa gốm sứ Trung Quốc, đồ đạc trong nhà bếp cũng được sắp xếp hết sức khoa học, nên chỉ cần với tay là lấy được thứ mình muốn.
Khi tôi kết thúc chuyến thăm quan ngôi nhà, tôi quay lại ghế sô pha, ngồi bần thần. Ngồi ở một nơi lần đầu đến, gặp những người xa lạ, tôi thấy mình sao lạc lõng quá thể. Kante đã ra ngoài làm thêm, cậu làm việc cho một cửa hàng 24h.
Cảm giác cõi đời này chẳng có ai kề cận, dù được tự do làm điều mình thích, sống như cách mình muốn, nhưng chẳng làm tôi vui vẻ chút nào. Đó là cảm giác choáng ngợp siết chặt lấy tôi.
Tamaki ngồi xuống cạnh tôi, bà đưa cho tôi một tách trà lài thơm ngát.
- Cháu thấy ổn chứ? Có gì bất tiện cháu cứ nói ra nhé.
- Mọi thứ rất tuyệt ạ. Sau này phải làm phiền cô rồi!
- Ngôi nhà này tuy nhỏ, nhưng vẫn luôn thừa rất nhiều khoảng trống. Cô đã cố lấp đầy chúng bằng nhiều cách khác nhau nhưng cốt lại vẫn vô ích. Vật chất không phải là thứ cô tìm kiếm bấy lâu nay, mà là con người. Ai đó có thể đến đây, giúp ngôi nhà này bớt được vài phần lạnh lẽo.
Tôi như nuốt lấy từng lời Tamaki nói. Cách bà nói về mái ấm của mình, khiến tôi có cảm giác bà đang sống cô đơn một mình vậy.
Tamaki chậm rãi nói tiếp.
- Cô mong rằng cô cũng đang làm thế với cháu.
Thái độ không quá nồng nhiệt cũng không quá lạnh lùng của Kante và và Tamaki làm cho cho tinh thần tôi như được vỗ về sau những ngày chống chọi với bão lớn và gần như kiệt sức.
Dạo gần đây rạp chiếu phim có một vị khách rất đặc biệt. Cô ấy hay đến vào lúc rạp bắt đầu suất chiếu lúc sáu giờ. Cô mua năm ghế liền nhau, dựng tay vịn lên, rồi nằm ngủ. Lúc đầu tôi cũng không để ý, cho đến khi phát xong suất chiếu cuối cùng, tôi đi xung quanh dọn rác thì thấy một cô gái nằm ở băng ghế giữa, hai tay khoanh trước ngực, mắt nhắm nghiền, còn phát ra tiếng ngáy khì khì. Tôi khẽ chạm vào vai cô ấy, cô choàng mở mắt, trân trân nhìn tôi, giống như đang nằm mơ thấy ác mộng và khi con quái vật sắp nuốt chửng cô thì được người khác đánh thức. Những lần khác, khi nghe thấy giai điệu quen thuộc thường được phát vào đoạn kết, cô đã tự tỉnh dậy, vò xù tóc mình lên, dụi dụi mắt, rồi chụp cái mũ rộng vành lên đầu và đi ra khỏi phòng chiếu.
Có lần tôi bắt gặp cô khóc khi nhìn thấy cảnh Malda bị bán vào một nhà chứa chỉ vì cha cô không đủ tiền mua thuốc phiện. Tiếng cô nấc nghẹn xen lẫn những động chạm da thịt của những đôi tình nhân ngồi xung quanh, trông cô cứ như một nữ đồng trinh sống ở nước Ý vào những năm đầy rẫy nhục dục nhơ nhuốt.
Tôi đã kể về người khách đặc biệt cho Kante nghe. Cậu chậm rãi bóp nát gói mì tôm trong tay, bóc giở nó ra, đưa cho tôi một mẩu mì sống, rồi trút hơn phân nữa còn lại vào miệng.
- Có thể cô ấy đang cố lẩn trốn. Chúng ta vẫn thường cố tình nấn ná đâu đó quá lâu để tránh trở về nơi mà chúng ta không muốn về sớm ngoặc ngược lại, đó là nơi duy nhất cô ấy có thể ở lại. – Kante bình thản nói.
- Nơi đó có thể là gì?
- Nhà của cô ấy chẳng hạn. Đôi lúc tớ cũng như vậy, thà ngồi gặm bánh mì một mình trong công viên còn hơn là về nhà sớm và phải tự nấu ăn. Hôm qua là ngày duy nhất trong suốt tám năm mẹ tớ có mặt ở nhà vào buổi tối. Bà làm việc ở một quán bar. Vào những giờ mà những người mẹ người vợ bắt đầu vào bếp và chuẩn bị bữa tối thì cũng là lúc mẹ tớ đang vội vã trang điểm và ra khỏi nhà trước sáu giờ tối. Đến khi tớ thức dậy vào buổi sáng thì cả nhà sẽ nồng nặc mùi rượu, thuốc lá, nước hoa, mùi nôn mửa của khách chơi trộn lẫn vào nhau giăng khắp nơi. Còn mẹ tớ sẽ nằm sõng soài trên ghế sô pha, quần áo xô lệch và đầu tóc bù xù. Tớ chán ghét kinh khủng cảnh tượng ấy, thế nên tớ cũng ở suốt bên ngoài.
Tôi ngưng đặt câu hỏi và ngấm ngầm hiểu ra. Rốt cuộc thì ai cũng có nơi phải trở về, cô gái ấy, tôi và Kante. Nơi mà dẫu chán ghét ra làm sao, chúng tôi vẫn phải trở về sau những giờ tăng ca căng não, một cuộc họp dai dẳng mấy tiếng đồng hồ, một nơi ồn ào và xô bồ như ở quán bar, chúng tôi vẫn cần một nơi danh chính ngôn thuận để đặt lưng.
~~~
Đôi lúc trong khi chờ đến suất chiếu của mình, cô ngồi trên dãy ghế chờ phía bên ngoài phòng chiếu, hai đùi khép chặt, đặt một quyển sổ lên trên và cắm cúi ghi chép gì đó. Một tay cô viết, tay còn lại khép hờ và khum thành một vòng cung che phía trên quyển sổ, chắc cô sợ ai đấy đi ngang qua sẽ đọc được. Tôi tỉ mẩn quan sát cô, một cô gái có lớp tàn nhang dày đặc hai bên má, dáng người thanh mảnh, xương quai xanh ẩn hiện qua lớp áo thun, chiếc quần bò màu xanh rêu, búi tóc thật cao để lộ chiếc cổ cao thon thả. Hồi lâu, cô ngẩng mặt lên, nhìn thẫn thờ vào tấm bảng dán poster phim, thở hắt ra, rồi lại cúi đầu viết tiếp. Tôi muốn bắt chuyện hỏi thăm cô vài câu, rằng tại sao cô luôn ngủ mỗi khi đến rạp chiếu phim, tại sao cô hay đi một mình và cô viết nhật kí về ai đấy. Nhưng tôi cảm thấy bản thân thật xấu xa với những ý nghĩ đó, chẳng khác nào một kẻ thích lo chuyện bao đồng và soi mói chuyện đời tư người khác.
Những lần tiếp theo đó, tôi như người gác cổng, canh chừng giấc ngủ cho cô gái nhỏ. Tôi muốn đuổi cổ hết những kẻ nhân danh tình yêu để đến đây làm mấy trò ô uế, để giữ cho giấc ngủ của cô được nhịp nhàng. Tôi đứng cách cô vài số ghế, bỗng chuông điện thoại vang lên, cô bật dậy, nhìn vào màn hình điện thoại hồi lâu rồi lao ra ngoài. Lúc lướt qua tôi, quyển sổ tay cô cầm va vào thành cửa rơi xuống đất, cô ngoái đầu nhìn tôi ái ngại, chần chừ giây lát rồi chạy biến đi.
Tôi muốn lao theo cô, nhưng không thể bỏ rạp. Đến cuối ngày, tôi trở về nhà Kante, ngồi trên ghế sô pha, lật giở từng trang nhật kí.
“Ngày… tháng… năm…
Đây không biết là lần thứ bao nhiêu tôi đến rạp chiếu phim này. Đây là nơi duy nhất tôi có thể yên giấc ngủ mà không bị những cơn ác mộng quấy phá. Bóng tối thật an toàn và ấm áp biết bao. Trong ánh sáng yếu ớt, những âm thanh phát ra từ những bộ phim cũ, đều đều chầm chậm, là những thứ không bức ép tôi như thế giới ngoài kia.
Tôi và Kens đã chia tay nhau lâu rồi, lâu đến mức tôi chẳng nhớ nổi là từ khi nào. Anh đã bước đi về phía có thứ ánh sáng rực rỡ chói mắt và không còn muốn ẩn náu trong bóng tối cùng tôi nữa. Tôi thấy ảnh của anh được in trên những tấm áp phích, dán khắp nơi trong thành phố. Tôi đã cố lẩn trốn anh. Nhưng không được, bằng một cách vô tình, anh khiến tôi phải luôn nhìn thấy anh. Tôi nhớ anh nhiều lắm.
Kể từ khi anh bỏ đi, tôi không tài nào chợp mắt được. Ba đốt hết những tấm ảnh tôi chụp cùng anh, vứt điện thoại của tôi, để ngăn cho tôi không nhớ về anh. Anh cũng đã thay ổ khóa, tôi đã cố trèo vào nhà anh từ cửa sổ sân vườn và ngã gãy chân. Tôi vừa đau vừa tủi, tôi cố lết ra đường lớn, hét thật to mong rằng có ai đó xung quanh và giúp tôi đến bệnh viện. Nhưng lúc ấy là ba giờ sáng, Kens không có nhà, cũng không có ai gần đó, tôi trong tư thế mặt đầm đìa máu, khóc nức nở đến tận trời sáng. Tôi không ngừng khản giọng cầu xin: “Kens ơi, xin anh hãy xuất hiện đi. Làm ơn đi mà!”
Ngày… tháng… năm…
Ba và tôi chuyển đến thành phố này. Lần đấy, khi tôi đang lang thang trên đường, tôi nhìn thấy Kens bước vào rạp chiếu phim này. Tôi đuổi theo anh vào bên trong, ở hàng ghế giữa, ghế số 3, anh mặc một chiếc áo choàng che kín cổ, tôi ngồi phía bên phải cách anh hai ghế, lặng lẽ quan sát anh, khoảng cách này gần đến mức tôi có thể nhìn thấy rõ từng cử chỉ của anh. Trên màn ảnh lớn, Alsa và Colopin đang đứng trước một vực sâu, phía sau là quân lính đang vây quanh họ. Nếu Alsa và Colopin cùng nhau nhảy xuống vực, họ sẽ mãi mãi ở cạnh nhau. Nhưng, Colopin không muốn như thế, ánh mắt anh nhìn Alsa cho tôi biết, anh không muốn cô chết cùng anh, cô xứng đáng được sống. Thế rồi, Colopin đẩy Alsa vào đám quân lính, không quay lại nhìn cô thêm phút giây nào, bước lên phía trước và nhảy xuống vực. Tiếng gào khóc thảm thiết của Alsa như xé nát cõi lòng tôi. Tôi đã khóc và… tôi nghe thấy tiếng nấc rất khẽ của Kens. Chúng tôi đã ở cùng một không gian, nhìn thấy những gì người kia thấy, khóc cùng nhau, thế là đủ rồi.
Tôi lấy quyển sổ tay trong túi ra che kín mặt lúc Kens lướt ngang qua. Anh không nhận ra điều gì bất thường và cứ thế đi thẳng. Thật tốt vì tôi đã không bị phát hiện. Đúng! Ánh sáng rực rỡ phía trước thuộc về anh, và vị trí của tôi là đây, hàng ghế khán giả, ủng hộ và yêu thương anh…”
Một năm trôi qua, cuốn sổ vẫn còn nằm yên bên trong thùng thủy tinh đựng đồ khách đánh rơi. Ông chủ nói sẽ sang rạp cho một người khác. Tôi hỏi đó là ai, ông chỉ bảo là một diễn viên nổi tiếng do một lần ghé qua xem phim trong giờ giải lao ở phim trường, cảm thấy yêu thích không gian ở đây nên ngỏ lời muốn mua lại. Tất cả nhân viên sẽ được tiếp tục làm việc nếu muốn. Mọi thứ sẽ được giữ nguyên vị trí, chỉ trừ một sự thay đổi là vào thứ sáu của tuần cuối cùng trong tháng, ở hàng ghế giữa, ghế số 3 và số 5 sẽ không bán vé.
Người chủ mới chưa từng ghé qua rạp lần nào, mọi công việc được nhân viên trao đổi qua email. Lần đó, rạp dán poster bộ phim mới ra mắt, khá nổi tiếng gần đây. Trong poster, một chàng trai đứng tựa người vào thanh chắn vỉa hè, ánh mắt dán xuống mặt đường, từng làn khói trắng mờ ảo uốn lượn xung quanh khuôn mặt điển trai nổi bật với mái tóc màu đỏ rượu vang. Trong buồng kính, tôi nhìn thấy một cô gái quấn khăn quàng cổ che kín nửa mặt, tiến đến gần tấm poster, lẩm nhẩm đọc gì đó. Cô đưa tay chạm vào khuôn mặt của nam diễn viên, ánh mắt dịu dàng, mỉm cười bâng quơ. Cô gái đang nghĩ gì thế? Nghĩ đến người mình yêu hay người mình muốn rủ xem phim cùng?
Còn cô gái ấy, khi nào em ghé qua, để tôi còn trả lại kỉ vật đây?
Chỉnh sửa lần cuối: