Dã Sử Chim sẻ trắng trên mái Hoàng Thành - Cập nhật - Septvn

Septvn

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
☆☆☆
Tham gia
7/5/17
Bài viết
211
Gạo
900,0
Chim sẻ trắng trên mái Hoàng thành
148894816-256-k145706.jpgg


(Bản quyền thuộc về Septvn. Nếu bạn có nhu cầu repost vui lòng liên hệ email: septvn@gmail.com)
Tác giả: Septvn
Bìa: linlin310
Thể loại: Cổ đại Việt Nam, dã sử, tình cảm
Tình trạng sáng tác: Đang sáng tác
Độ dài: 37 chương
Giới hạn độ tuổi đọc: Không
Cảnh báo về nội dung:
Truyện dựa trên bối cảnh lịch sử triều Lý, chuyển giao giữa Lý Nhân Tông và Lý Thần Tông (năm 1070 – 1138).
Một số chức danh, tên gọi, sự kiện lịch sử là thật. Đa phần còn lại là trí tưởng tượng của tác giả.
Giai đoạn này nước ta vẫn xem như một tỉnh của Trung Quốc (triều Tống) nên văn hóa chịu ảnh hưởng rất nhiều từ Trung Quốc. Thế nên một số danh xưng tác giả sẽ thay đổi để dễ hiểu và phù hợp với môi trường và ngữ cảnh Việt Nam.


Giới thiệu


"Trên mái hiên Hoàng thành* có con chim sẻ trắng
Chim ở đó nhìn thế cuộc đổi dời
Đôi mắt buồn dõi về chốn xa xôi
Gió đằng đông có mang mây trôi mãi
Xuân qua hạ tới thu ấm đông tàn
Bao nỗi vui buồn, bao phen hợp tan
Chim vẫn kiên trì buông tiếng hót
Âm thanh kia có thấu tận trời?

Ai khao khát tự do
Ai đắm mình trong quyền lực
Ai vững vàng lời hứa
Ai mưu tính chuyện xa vời?

Trên mái hiên Hoàng Thành có con chim sẻ trắng
Chim ở đó nhìn thế cuộc đổi dời
Liệu rằng khi dang rộng đôi cánh
Chim kia có thoát được mệnh trời?"

*Hoàng thành Thăng Long

Lý Dương Hoán (Lý Thần Tông) là vị vua thứ năm thuộc vương triều nhà Lý, lên ngôi năm 1128, khi chỉ mới mười hai tuổi, đằng sau là cả một âm mưu của các thế lực ngầm. Mười năm vương vị là mười năm cẩn trọng, mười năm tính toán của một bậc đế vương.

Mười năm ấy là một câu chuyện dài...


"Sai lầm lớn nhất của thiếp, chính là đã kéo chàng vào cuộc đấu tranh tàn khốc này và đẩy chàng xa rời thiếp. Thật sự xin lỗi..."
Mục lục
----------
Chương 01: Ỷ Lan phu nhân
Chương 02: Oán oán ân ân một kiếp người
Chương 03: Dòng dõi nhà họ Dương
Chương 04: Đứa trẻ mang chân mệnh Thiên Tử
Chương 05: Hoàng thành có một Dương Hoán

Chương 06: Chuyến đi khỏi thành Thăng Long
Chương 07: Lần gặp đầu tiên
Chương 08: Chim sẻ trắng và mèo hoang
Chương 09: Chuyển dịch
Chương 10: Xuất thân quý hiển
Chương 11: Lệ Thiên hoàng hậu
Chương 12: Bàn cờ chỉ mới bắt đầu
Chương 13: Lá rụng về cội
Chương 14: Những đứa trẻ dần lớn lên
Chương 15: Trang Chu là bướm, bướm là Trang Chu
Chương 16: Quân tốt xuất trận
Chương 17: Lùi một bước
Chương 18: Đào hố chôn mình
Chương 19: Cuộc chiến không cân sức
Chương 20: Sứ giả Chiêm Thành
Chương 21: Kẻ điên người tỉnh
Chương 22: Giấc mộng dài

Chương 23: Thần tiên trên đỉnh Bạch Vân

Chương 24: Chết
Chương 25: Bên ngoài lạnh lẽo, héo mòn bên trong
Còn tiếp...
_______________________________________________
Mời bạn ghé xem và góp ý cho Doll

Truyện dài: Trần Chân, Chim sẻ trắng trên mái Hoàng thành
Truyện ngắn/ Tản văn: Tấm Cám, Một chút nữa thôi, Vòng tròn, Nhớ - quên, Tôi đâu có yêu
Thơ: Lạc, Tự vấn, E ấp, Một mình, Một mình 2, Ghen, Em hỏi anh này
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Septvn

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
☆☆☆
Tham gia
7/5/17
Bài viết
211
Gạo
900,0
Chương 00: Mở đầu

*Note: Để giảm bớt sự nặng nề cho truyện, một số danh xưng và từ ngữ mình sử dụng đơn giản hóa để dễ hiểu hơn và tránh phụ thuộc quá nhiều vào Hán ngữ. Ví dụ: ông cố thay cho “tằng tổ phụ”, bà cố thay cho “tằng tổ mẫu”, cha thay cho “phụ thân”…
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Septvn

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
☆☆☆
Tham gia
7/5/17
Bài viết
211
Gạo
900,0
dt4ifjqoza35lwd6v.jpg

 
Chỉnh sửa lần cuối:

Septvn

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
☆☆☆
Tham gia
7/5/17
Bài viết
211
Gạo
900,0
Chuyên mục đọc Sử - Kỳ 1

Xin chào các bạn, mình là Đô. Đáng lí mình định viết truyện thôi, chú thích sẽ tự động thêm vào trong nội dung từng chương. Nhưng có nhiều chi tiết không thể chú thích và nếu chú thích thì sẽ làm truyện rất dài, nên sau vài chương truyện mình sẽ tổng hợp một lần về các địa danh, chức vị, tên gọi còn lạ lẫm…

I. Nhân vật
Đầu tiên điểm sơ qua về các vua triều Lý.
1. Lý Thái Tổ (974 – 1028) – Lý Công Uẩn
2. Lý Thái Tông (1000 – 1054) – Lý Phật Mã
3. Lý Thánh Tông (1023 – 1072) – Lý Nhật Tôn
4. Lý Nhân Tông (1066 – 1128) – Lý Càn Đức
5. Lý Thần Tông (1116 – 1138) – Lý Dương Hoán

Niên hiệu – Thụy hiệu – Miếu hiệu

Niên hiệu là một giai đoạn gồm các năm nhất định được các hoàng đế Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa như Việt Nam, Triều Tiên & Nhật Bản sử dụng. Mỗi vua thường có một hoặc nhiều niên hiệu riêng. Sau niên hiệu là số năm (thông thường bắt đầu từ ngày đầu năm mới âm lịch). Niên hiệu được xuất phát từ khẩu hiệu hay phương châm trị vì của vị vua đó.

· Vị hoàng đế có nhiều niên hiệu nhất là Lý Nhân Tông, với 8 niên hiệu.
· Niên hiệu dài nhất là của các vua nhà Lý (có thể tới 4 chữ Hán).

Ví dụ trong truyện:
Năm Hội Tường Đại Khánh thứ tám, năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ bảy,…

Thụy hiệu (đặt cho vua khi vừa mất) còn gọi là hiệu bụt hoặc tên hèm theo ngôn ngữ Việt Nam, là một dạng tên hiệu sau khi qua đời trong văn hóa Đông Á đồng văn gồm Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc.

Ví dụ: Thụy hiệu của vua Lý Thánh Tông là Ứng Thiên Sùng Nhân Chí Đạo Uy Khánh Long Tường Minh Văn Duệ Vũ Hiếu Đức Thánh Thần Hoàng đế

Miếu hiệu là tên hiệu dùng trong tông miếu dành cho các vị quân chủ sau khi họ đã qua đời, đây là một dạng kính hiệu khá đặc trưng của nền quân chủ Đông Á đồng văn, gồm Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam.

Miếu hiệu cơ bản cũng giống Thụy hiệu, để tôn vinh vua chúa đã qua đời. Miếu hiệu thường ngắn, chỉ có 1 tính từ đi với Tổ hoặc Tông, trong khi thụy hiệu có thể ngắn một vài chữ song cũng có thể rất dài, có khi lên hàng chục chữ.

Ví dụ: Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông…

Tổ và Tông

“Tổ” là thành tố thường xuất hiện trong miếu hiệu của những vị vua sáng lập triều đại. Kể từ vị vua thứ hai trở về sau mới sử dụng chữ “Tông”. Ví dụ như đối với triều Lý, Lý Công Uẩn là vị vua sáng lập nên miếu hiệu là Lý Thái Tổ, sau đó lần lượt là các vị vua: Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông, …

Nhân vật chính sử xuất hiện (hoặc được nhắc đến) trong truyện
  • Phụng Càn vương Lý Nhật Trung
Hoàng tử thứ tư của vua Lý Thái Tông, em trai vua Lý Thánh Tông (Lý Nhật Tôn của mình).
Hiện rất ít tài liệu về ông này.

  • Công chúa Ngọc Kiều
Lý Nhật Trung có một người con gái được Thánh Tông nhận nuôi – công chúa Lý Ngọc Kiều. Ngọc Kiều lớn lên gả cho châu mục Chân Đăng họ Lê (không rõ tên) khoảng năm 1058. Khi chồng mất, bà tự nguyện thủ tiết không chịu tái giá. Sau đó, bà đem cho hết các đồ trang sức, đến xin xuất gia (thọ Bồ-tát giới) với Thiền sư Chân Không ở làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội).
Thuận theo thỉnh nguyện của bà, nhà sư Chân Không xuống tóc cho, ban hiệu là Diệu Nhân và cho phép bà tu học tại ni viện Hương Hải ở làng Phù Đổng.

  • Lê Xương
Con trai của công chúa Ngọc Kiều. Mình tìm không được tài liệu về ông này.
  • Cảm Thánh phu nhân họ Lê – sau là Linh Chiếu hoàng thái hậu (trước 1108 – 1161)
Do không tìm được tên nên mình đặt tạm tên bà là Lê Diệu An. Bà sinh trước năm 1108, nhưng trong truyện mình sửa lại thành năm 1113 cho không quá chênh lệch Lý Thần Tông.
Năm 1128, Lý Thần Tông lên ngôi, phong bà là Cảm Thánh phu nhân. Bà là mẹ đẻ của vua Lý Anh Tông.
Lịch sử nhà Lý thường nhắc tới Linh Chiếu Thái hậu với vai trò nhiếp chính thời Anh Tông hoàng đế, cũng là người có vai trò quan trọng giúp con trai bà kế vị ngai vàng.

  • Lý Thần Tông – Lý Dương Hoán (1116 – 1138)
Lý Thần Tông là vị hoàng đế thứ năm của triều đại nhà Lý nước Đại Việt. Ông trị vì từ năm 1128 đến khi qua đời, tổng cộng là mười năm.
Lý Thần Tông tên thật là Lý Dương Hoán, sinh vào tháng 6 âm lịch năm 1116 tại kinh đô Thăng Long (Hà Nội), là con trai của Sùng Hiền hầu – em trai của Lý Nhân Tông, tức là cháu gọi Nhân Tông bằng bác. Mẹ ông là Đỗ phu nhân.
Có ý kiến cho rằng, Lý Thần Tông là hậu thân của thiền sư Từ Đạo Hạnh. Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư, quyển III ghi lại việc Từ Đạo Hạnh thoát xác tại chùa núi Thạch Thất năm 1116, ngay trước khi Lý Dương Hoán ra đời. Người xưa cho rằng vì Lý Nhân Tông không có con nên Từ Đạo Hạnh đầu thai làm con trai Sùng Hiền hầu để duy trì sự nghiệp của nhà Lý.

  • Nội chi hậu quản giáp Lý Sơn
Năm 1128, Lý Thần Tông lên ngôi, lập con gái của Lý Sơn là Lệ Thiên hoàng hậu. Phong cho Nội chi hậu quản giáp Lý Sơn thành Điện tiền chỉ huy sứ.
  • Lệ Thiên hoàng hậu Lý thị
Năm Thiên Thuận thứ 1 (1128), ngày Ất Sửu, bà được phong làm Lệ Thiên hoàng hậu. Sử không chép bà có người con nào với Thần Tông, và về sau Lý Anh Tông lên ngôi chỉ tôn mẹ đẻ Cảm Thánh phu nhân Lê thị làm Thái hậu, rất có thể lúc này Lệ Thiên hoàng hậu đã qua đời.
Trong truyện, mình đặt bà tên Lý Tâm Giao.

II. Địa danh

Chi tiết trong truyện:
Ranh giới Bắc Giang và Hải Đông(1) có dải núi Yên Tử. Đỉnh núi cao như muốn chọc trời, chạm vào mây trắng nên còn gọi là Bạch Vân sơn.

Sau khi thành lập triều Lý, Lý Thái Tổ liền tiến hành sắp xếp lại các đơn vị hành chính địa phương. Phủ Thiên Đức và phủ Thiên Trường được thành lập. Các đạo thời Đinh, Tiền Lê bị thay thế bằng các lộ nếu là ở đồng bằng, là châu, trại nếu là vùng rừng núi hoặc vùng xa kinh đô. Về sau còn lập thêm phủ Thanh Hóa (Thanh Hóa ngày nay), đạo Lâm Tây (vùng Tây Bắc ngày nay).

Đào Duy Anh cho rằng từ Lý Thái Tổ sắp xếp các phủ, châu đến thời Lý Thánh Tông mở rộng đất đai về phía nam (năm 1069) thì toàn bộ 24 đơn vị hành chính của nước Đại Việt bao gồm:
Phủ Đô hộ: là phụ quách của kinh thành Thăng Long, tức một phần thành phố Hà Nội (chưa bao gồm phần mở rộng thuộc Hà Tây cũ)
Phủ Ứng Thiên, tương đương một phần thành phố Hà Nội (chưa bao gồm phần mở rộng thuộc Hà Tây cũ)
Lộ Thiên Trường, tương đương tỉnh Nam Định hiện nay
Lộ Quốc Oai, tương đương lưu vực sông Đáy thuộc tỉnh Hà Tây cũ
Lộ Hải Đông, tương đương miền Quảng Ninh
Lộ Diễn Châu, tương đương vùng Bắc Nghệ An
Phủ Nghệ An tương đương tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh
Châu Lạng tương đương miền Lạng Sơn và Cao Bằng
Châu Phong tương đương vùng Phú Thọ, Yên Bái
v.v...

Đứng đầu bộ máy hành chính của các phủ, lộ là tri phủ, phán phủ, của các châu là tri châu, của các trại, đạo là quan mục. Riêng phủ Đô hộ đứng đầu là sĩ sư.

Các phủ, lộ được chia thành các huyện. Đứng đầu bộ máy hành của các huyện là huyện lệnh. Cùng cấp với huyện là hương. Tương đương với các huyện nhưng ở kinh đô thì có các phường. Thời Lý có 61 phường.

Các tư liệu lịch sử cũ cho biết thời Lý còn có các đơn vị hành chính gọi là hương mà Trần Thị Vinh (2008) cho rằng cùng cấp với huyện.

Các huyện, hương lại chia thành các giáp. Đứng đầu bộ máy hành chính ở giáp là quản giáp và chủ đô. Các giáp lại chia thành các thôn.

----------
Nguồn:


Tạm kết thúc kỳ 1. Bạn nào có vấn đề gì không hiểu hoặc góp ý thêm với mình thì comment nhé!

 
Chỉnh sửa lần cuối:

Septvn

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
☆☆☆
Tham gia
7/5/17
Bài viết
211
Gạo
900,0
Chương 1: Ỷ Lan phu nhân


Đại Việt, Triều Lý thứ ba: vua Lý Nhật Tôn,

Năm Thiên Khánh Gia Khánh thứ năm (1063),

Mùa xuân, khí trời trong lành, muôn hoa khoe sắc. Mấy hôm trước tri phủ truyền tin đức vua sẽ đến chùa Pháp Vân ở phủ Thiên Đức (tỉnh Bắc Ninh) để cầu tự khiến vùng quê yên tĩnh nhốn nháo cả lên. Có những người sống cả đời nhưng chưa bao giờ được nhìn thấy đoàn giá của vua, nói chi là trong khoảng cách gần như thế. Và biết đâu có cô gái nào may mắn được ngài để mắt, rước về cung thì cả dòng họ hưởng phúc phần. Vì thế thiếu nữ trong làng Sủi ai nấy cũng khoác lên mình bộ xiêm y đẹp nhất, đổ xô ra hai ven đường, ngóng chờ xe ngựa của vua đi ngang. Hoa xuân cũng không tươi tắn được bằng nét xuân của những thiếu nữ này.

Lý Nhật Tôn vén màn nhìn ra ngoài, trông thấy dân chúng háo hức nhưng trong lòng lại chẳng lấy làm vui. Năm nay người đã ngoài bốn mươi, không có con trai để kế vị. Bao nhiêu chùa linh ứng tại Thăng Long đều được bá quan văn võ đề xuất vua đến lễ Phật cầu con. Nhật Tôn tin vào Bồ Tát, nhưng còn việc Bồ Tát có cho người một thái tử hay không thì còn phụ thuộc vào cơ duyên.

Đô úy Ngô Thường Kiệt cưỡi ngựa đi cạnh xe Nhật Tôn, thấy vua vén rèm nhìn ra nên thúc ngựa lại gần hỏi thăm.

“Các cô gái mỗi người mỗi vẻ, xinh đẹp như hoa, chắc muốn được bệ hạ chú ý!”

Nhật Tôn lắc đầu: “Trong cung nào có thiếu hoa, chỉ thiếu mỗi quả.”

“Bẩm bệ hạ, có hoa rồi mới có quả.”

“Hoa cỏ nơi đây trẫm không thấy hứng thú. Nhưng khanh có nghe thấy tiếng hát không?”

Ngô Thường Kiệt tập trung lắng nghe, lúc sau đáp lời – nửa đùa nửa thật.

“Bẩm, thần có nghe, có vẻ là giọng của một thiếu nữ. Những tưởng mọi người đều tập trung ra đường hết rồi, hóa ra cũng có kẻ không thiết tha gặp được long nhan.”

Nhật Tôn suy nghĩ đôi chút rồi nói với Thường Kiệt.

“Khanh cho dừng lại và vào trong này với trẫm.”

Ngô Thường Kiệt tuân lệnh rồi cho đoàn người ngựa tạm ngừng, bản thân cũng xuống ngựa và vào xe của Nhật Tôn. Ít lâu sau, y lại trở ra, leo lên lưng ngựa và phi đi thật nhanh. Người ta chỉ để ý vị quan áo xám vào rồi ra khỏi xe chứ không ai nhận ra gương mặt vị quan ấy đã thay đổi. Nhật Tôn thay xiêm y của Thường Kiệt, đi theo hướng giọng hát vang lên.

Giữa ruộng dâu xanh mướt, điểm xuyến sắc tím của những bụi cỏ lan. Có một cô gái y phục đơn giản, tóc búi cao, đang ngồi tựa vào một trong số những bụi cỏ lan ấy ngân nga hát. Đúng như lời Thường Kiệt nói, cô gái độ khoảng đôi mươi, nét xuân mơn mởn hiện rõ trên đôi má ửng hồng.


Nhật Tôn phi ngựa lại gần. Cô gái nghe tiếng động vội vàng ngừng hát, đứng dậy nhìn Nhật Tôn.

“Ông là ai? Sao lại cưỡi ngựa vào ruộng dâu nhà tôi?”

Nhật Tôn xuống ngựa, tiến lại gần cô gái ấy.

“Ta đang hộ tống hoàng thượng đi đến chùa Pháp Vân để bái Phật. Giữa đường nghe tiếng hát của cô nên tò mò lại xem. Này cô gái, ta thấy mọi người đang đổ xô đi xem long nhan, sao chỉ có mình cô ở đây?”

Cô gái ấy nghe Nhật Tôn hỏi liền phì cười.

“Ông ơi long nhan thì cũng hai mắt một mũi như mọi người, huống hồ nơi đó đông đúc như vậy, làm sao tôi chen vào nổi mà xem. Chưa kể có chen được thì cũng chỉ thấy mỗi chiếc xe, con ngựa và các vị quan binh thôi chứ làm sao trông thấy được mặt vua. Thôi, ruộng dâu tôi đầy cỏ, tôi nhổ cả buổi sáng cũng chưa được bao nhiêu đây này.”

Nhật Tôn nghe cô gái trả lời, vừa tự ái, vừa buồn cười. Quả thật cô ta không nói dối, tay chân vẫn còn dính đất bùn và gương mặt cũng hơi lem luốc. Nếu muốn quyến rũ vua thì với ngoại hình hiện tại chắc cũng không có khả năng.

“Cô gái còn nhỏ tuổi mà to miệng thế. Chồng cô đang ở đâu, sao lại để vợ mình cực khổ thế kia?”

“Ơ ông này, sao ông hỏi sổ sàng vậy. Ông có quen tôi không sao lại biết tôi đã có chồng hay chưa?”

“Vậy ra cô chưa có chồng à. Cô tên gì?”

“Sao tôi phải nói với ông?”

“Hay cô sợ tôi khai danh tính cô với đức vua rồi bị ngài trách phạt?”

Cô gái nghe đến đây, bật cười thành tiếng.

“Tôi không sợ đâu. Ông nghe cho rõ đây, tôi họ Lê, tên Khiết An. Nếu ông muốn định tội thì cứ gặp trưởng thôn mà đòi ông ấy giao người.”

Lê Khiết An – tên cô gái – sau khi nói xong liền phủi phủi người cho những lá cỏ rơi xuống, chuẩn bị bước ra ruộng dâu.

“Thôi tôi đi làm tiếp đây. Ông có thể đi theo hướng này hoặc hướng này, đừng đi ra phía này, ngựa của ông sẽ dẫm nát dâu nhà tôi mất!”

Bóng cô gái nhỏ dần sau những chiếc lá non xanh, Nhật tôn thẩn thờ trông theo. Cô gái này còn trẻ nhưng tính tình bộc trực, lời nói đanh thép, không sợ quan quyền. Hình ảnh ấy cứ đeo đẵng Nhật Tôn trong suốt buổi lễ Phật tại chùa Pháp Vân. Tuy là lần đầu gặp mặt, nhưng không hiểu sao Nhật Tôn lại có cảm giác cô gái này thân quen lắm, hay chính Bồ Tát đang dẫn lối, giúp ngài tìm được người sinh hoàng tử.

Trước khi rời nơi đây để quay về cấm cung, Nhật Tôn ý chỉ cho Thường Kiệt: “Khanh tìm gặp trưởng thôn, cho đón cô gái mang tên Lê Khiết An đi.”

Ngô Thường Kiệt mỉm cười tuân lệnh: “Bệ hạ yên tâm, hạ thần lập tức sắp xếp mọi việc, cô ấy sẽ sớm vào cung.”

*

* *

Chuyện Lý Nhật Tôn chọn tú nữ là một cô gái hái dâu nhanh chóng lan truyền khắp hậu cung. Sáng nào phi tần đến thỉnh an cũng bày tỏ bức xúc này đến hoàng hậu. Lê Khiết An còn chưa nhập cung mà các nàng phi kia cứ quấy lên chẳng khác nào cô dân nữ ấy đang hiện diện bên cạnh mình.

“Bẩm hoàng hậu, người nói xem, người là thiên kim của Tể tướng, chúng thần thiếp dù sao cũng là con gái nhà quan bậc tam phẩm trở lên. Bao nhiêu năm nay bệ hạ có bao giờ tuyển tú bên ngoài, lần này lại cho đón một ả dân nữ hái dâu thì sao được chứ?”

“Vâng thưa nương nương, cứ cho là bệ hạ tuyển tú nữ bên ngoài, nhưng ít nhất cũng nên là danh môn khuê cát, tiểu thư gia đình phú hộ nào đó được giáo dục đàng hoàng. Đằng này con gái một nông phu lại sắp ngồi chung mâm chung bàn với chúng thần thiếp, điều đó quá thiệt thòi cho chúng thần thiếp rồi.”

Dương Hồng Hạc ngoài mặt không cảm xúc nhưng bên trong đã bị tiếng than thở của mấy ả kia khiến cho mệt người. Hồng Hạc đặt mạnh tách trà xuống bàn. Âm thanh vang lên khiến các phi tân hoảng hốt im bặt. Lúc này, Hồng Hạc mới chậm rãi lên tiếng.

“Các ngươi đã nói xong chưa? Ta biết các ngươi đang cảm thấy uất ức về việc này. Điều này ta cũng cảm nhận được.”

Không gian bắt đầu rơi vào trầm lặng, mấy vị phi tần dù tức nhưng chỉ dám để trong ánh mắt, không dám thể hiện ra ngoài. Hồng Hạc tiếp tục.

“Từ đầu bệ hạ đã nói trước là sẽ tuyển tú ngay tại nơi thắp hương dâng Phật. Tại sao vua một nước lại phải đích thân đi lễ Phật ở nơi xa xôi như vậy? Đó là vì chúng ta cứ ngồi đây, ngoài việc mải mê than trách thì có ai đã làm gì được cho bệ hạ chưa? Chúng ta ở đây cũng gần hai mươi người, nhưng ngoài năm công chúa ra thì còn không có lấy một hoàng tử, đã ai thấy hổ thẹn chưa?”

Không gian lại yên lặng hơn. Một hai vị phi tần đã bắt đầu cúi đầu, đỏ mắt.

“Làm thê thiếp trong nhà bình thường, trách nhiệm sinh con nối dõi đã không nhẹ. Huống hồ chúng ta là thê thiếp của vua, trọng trách ấy lại càng nặng nề. Nhưng chúng ta nặng một thì bệ hạ nặng đến mười. Có ai biết tấu chương đề cập việc này qua bao nhiêu năm đã nhiều đến thế nào không? Rồi bao nhiêu nguy cơ đang rình rập. Tất cả việc ấy, chúng ta có thể cùng bệ hạ gánh vác mấy phần?”

“Cô gái lần này bệ hạ chọn, ta đã nghe qua, dung mạo xinh đẹp, đoan trang lại có chút chữ nghĩa. Đêm qua ta mơ thấy Bồ Tát, ngài nói rằng cô gái kia sẽ mang thêm phúc đến cho bệ hạ, cho Lý triều. Ta tin Bồ Tát và ta cũng tin vào bệ hạ. Thay vì oán trách, chúng ta hãy cầu phúc cho người và đối xử tốt với cô ấy nhưng đang đối xử với nhau. Chúng ta may mắn hơn cô ấy là vì sinh ra trong gia đình quyền quý, nhưng thử bỏ đi xuất thân, thì tất cả cũng chỉ là phận đàn bà như nhau thôi. Đã cùng phận như nhau, phải thấu hiếu nhau chứ sao có thể ganh ghét!”

Trong phòng vang lên tiếng sụt sịt, ban đầu một hai tiếng rồi sau đó cả đám phụ nữ òa khóc, khăn tay chấm một tí đã ướt đẵm nước mắt. Hồng Hạc nhìn những cô gái trước mặt, vốn đã quen sống trong nhung lụa, được chiều chuộng thương yêu mà không khỏi chạnh lòng. Là phận đàn bà, có ai không nhỏ nhen đố kỵ, ai không khỏi ghen tuông khi chồng mình bốn thiếp ba thê.

“Nương nương dạy phải, chúng thần thiếp xin nghe.”

Sau một trận khóc lóc phân bua thì bọn họ cũng ai về cung nấy. Đầu Hồng Hạc từ trước đã căng như dây đàn, giờ nhức không tả nổi. Cung nữ thay cho người tách trà nóng, hoàng hậu vừa uống, vừa thở dài…

Bệ hạ đã nói gì với người về việc chọn tú nữ đâu. Mọi việc người biết đều là do thái giám đến truyền tin. Thời gian đầu hoàng thượng e dè với mình, hoàng hậu còn hiểu có thể do đề phòng thế lực họ Dương. Nhưng giờ tóc trên đầu đã có sợi bạc, nhà họ Dương cũng một mực trung trinh, bệ hạ vẫn không thay đổi thái độ thì chắc có thể là một nguyên do: ngài thật sự không thích mình. Buồn hay vui cũng đã hơn nửa đời người, Hồng Hạc cũng không màng nghĩ đến nữa.

Nhật Tôn đến chùa Pháp Vân vào giữa tháng hai, sang đầu tháng ba Lê Khiết An chính thức nhập cung, phong làm Ỷ Lan phu nhân. Hồng Hạc sắp xếp cho Ỷ Lan ở Du Thiền các. Buổi vấn an đầu tiên, các phi tần khác nửa khinh khi nửa tò mò, cuối cùng nhận ra về phần nhan sắc Ỷ Lan chẳng so được với ai, về phong thái cũng không ra dáng khuê nữ quyền quý. Nhưng nhờ như vậy, thái độ ghét bỏ sân si của họ đã giảm đáng kể, cùng lắm chỉ là không mấy quan tâm đến Ỷ Lan nữa, để xem phu nhân này có thể giữ chân bệ hạ được bao lâu.

Ỷ Lan vào cung, mọi chuyện lớn nhỏ đều được Hồng Hạc đích thân dạy bảo. Người ngoài không biết còn ngỡ rằng Ỷ Lan có họ hàng với hoàng hậu nên đối với nàng, hoàng hậu đặc biệt nhân từ.

“Ỷ Lan, ta nhìn em thấy có nét rất quen…”

Ỷ Lan nhập cung đã được ba tháng, bồi bổ bằng những thực phẩm quý giá cộng với lụa tốt khoác lên người nên xinh đẹp và khí chất hơn trước rất nhiều. Điểm nổi bật của Ỷ Lan chính là đôi mắt to tròn đen láy như biết cười. Ánh mắt ấy khiến người khác cảm thấy rất dễ chịu. Một vài lần Hồng Hạc nhìn Ỷ Lan, tự nghĩ có phải chính vì vậy mà bệ hạ cho đón về cung.

“Bẩm nương nương, quê thần thiếp ở hương Thổ Lỗi, phủ Thiên Đức. Bản thân thần thiếp thì đây là đầu đến kinh thành, chẳng hay lúc trước nương nương có từng ghé ngang hương Thổ Lỗi?”

“Lúc chưa nhập cung ta có đi ngang Thiên Đức đôi lần để đến châu Lạng (tỉnh Lạng Sơn), nhưng chỉ là đi ngang chứ không ghé lại, cũng không có ấn tượng là gặp em ở đó. Có lẽ ta nhầm, ban đầu nhìn em thấy có nét quen, nhưng về sau lại không còn cảm giác ấy nữa.”

“Vâng ạ!”

Ỷ Lan lễ phép gật đầu rồi lại tiếp tục chép kinh cùng Hồng Hạc. Trời đã vào tháng bảy, thường xuyên đổ mưa. Không gian trong phòng tĩnh lặng, có thể nghe được tiếng lông bút chạm vào giấy, hòa vào tiếng mưa tí tách trên mái hiên. Bên ngoài, những đóa hoa cúc cũng đã vào mùa, thi nhau nở rộ vàng tươi cả một góc vườn Quỳnh Lâm.

*

* *

Ỷ Lan phu nhân nhập cung vừa tròn một năm tin vui đã đến, thái y chẩn mạch báo có long thai.

Nhật Tôn nghe tin vui mừng khôn xiết, miễn thuế nửa năm cho nhân dân. Lúc ấy dân chúng cả nước như chung vui cùng hoàng thượng, có người còn đi chùa, cầu cho trong bụng Ỷ Lan phu nhân là con trai. Thời gian này Nhật Tôn hay ở lại hoàng cung để chăm sóc Ỷ Lan, việc dẹp loạn bên ngoài giao hết cho thái sư Lý Đạo Thành.

Tháng Giêng năm Long Chương Thiên Trị thứ nhất (1066), Ỷ Lan hạ sinh bé trai. Nhật Tôn đặt tên con là Lý Càn Đức – nghĩa là ân đức Trời ban. Lý Càn Đức vừa được sinh ra đã được phong làm thái tử; Ỷ Lan phu nhân phong làm Thần phi, đại xá toàn dân.

Từ khi có Càn Đức, Ỷ Lan lại càng được Nhật Tôn sủng ái. Có những lúc phê duyệt tấu chương, người cho nàng vào hầu trà, mài mực… đôi khi cao hứng, người lại hỏi ý nàng về chuyện chính sự. Ban đầu Ỷ Lan có phần e dè, nhưng Nhật Tôn thích nghe nàng nói thật, Ỷ Lan cũng trình bày quan điểm của mình, rất hợp ý vua.

Năm Thiên Thống Bảo Trượng thứ nhất (1068), em trai Nhật Tôn là Phụng Càn vương Lý Nhật Trung qua đời, Nhật Tôn đem con gái của Trung vào cung, nhận làm con nuôi, phong làm công chúa, ban tên Ngọc Kiều. Lúc bấy giờ Ỷ Lan đang mang long thai lần hai vào tháng thứ tám, bụng to vượt mặt, đi đứng khó khăn nhưng vẫn đến Tử Ngọc cung gặp Ngọc Kiều. Vừa trông thấy Ngọc Kiều, Ỷ Lan chẳng ngại ôm lấy đứa trẻ, nước mắt ngắn dài thi nhau rơi xuống. Cung nô thầm nghĩ là do chủ nhân thương xót cho số phận công chúa từ nhỏ đã mồ côi giống như mình khi xưa.

Bệ hạ yêu thương Ngọc Kiều rất nhiều, chiều chuộng còn hơn cả Càn Đức nhưng Ỷ Lan chưa bao giờ buồn phiền về việc ấy, ngược lại còn nói với thái tử rằng do Ngọc Kiều là con gái yếu ớt nên cần tình yêu thương nhiều hơn. Càn Đức cũng không so đo gì việc đó, thái tử cũng rất quý người chị này và luôn bênh vực mỗi khi Ngọc Kiều bị các công chúa khác ức hiếp.

Ỷ Lan hạ sinh lần hai lại là hoàng tử, đặt tên Lý Càn Quyết. Nhưng không may hoàng tử chưa tròn một tuổi đã bị bệnh mà mất. Nhật Tôn thương tiếc truy phong nhị hoàng tử là Minh Nhân vương. Để an ủi Ỷ Lan, hoàng thượng phong nàng là Nguyên phi.

Ba năm sau nữa, Ỷ Lan lại mang thai. Chính vào thời điểm này em ruột của hoàng hậu là Dương Đức Thao dính vào vụ cấu kết với Chiêm Thành. Tội này tru di tam tộc, hoàng hậu khấu đầu trước điện Hội Tiên ròng rã ba ngày vẫn không xin được cho gia đình mình. Khi đi đến đường cùng, Hồng Hạc đành phải tìm gặp Ỷ Lan.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Septvn

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
☆☆☆
Tham gia
7/5/17
Bài viết
211
Gạo
900,0
Chương 2: Oán oán ân ân một kiếp người


Ỷ Lan đang dựa vào trường kỷ, một bên cung nữ đứng quạt còn một bên cung nữ đang bóc từng múi quýt dâng lên miệng nàng. Cung nữ vào thông báo hoàng hậu đến, Ỷ Lan cũng không có dự định đứng dậy, cho đến khi Hồng Hạc tiến vào phòng.

“Thần thiếp thỉnh an nương nương. Thứ lỗi cho thần thiếp đang trong giai đoạn cuối của thai kỳ, đi đứng khó khăn, chỉ cần trở mình không đúng ý là long thai khó chịu nên không thể hành lễ với nương nương được.”

Hồng Hạc dáng vẻ xộc xệch vì đã quỳ suốt ba ngày nay, tóc tai rối bù còn gương mặt thì thất thần như kẻ sắp chết. Nàng biết Nguyên phi không màng gì đến lễ nghi nhưng hiện tại nàng như con phượng hoàng gãy cánh thì còn ai tôn trọng mình. Quanh đi quẩn lại, tiền triều chỉ có mỗi thái sư Lý Đạo Thành là còn chút tình nghĩa còn hậu cung thì Ỷ Lan có tiếng nói. Uy nghiêm danh dự nhà họ Dương, người đành đặt xuống chân, mặt dày đến cầu cạnh nàng ta.

“Ôi, nương nương sao lại ra nông nỗi này? Có chuyện gì với người chăng?”

Cung nữ đỡ Hồng Hạc ngồi xuống ghế, nàng cũng chẳng vòng vo nữa mà đi thẳng vào vấn đề.

“Ỷ Lan, chắc em cũng biết em trai ta mang trọng tội, họa này tru di cả dòng tộc. Tuy bệ hạ không trách phạt ta, nhưng Dương gia không ai còn mạng. Ta lại có lòng tin em ta bị người khác hãm hại, mong em hãy giúp ta, nói một tiếng với bệ hạ, truy xét lại vụ án này.”

Ỷ Lan nghe đến đây, đưa tay đặt lên ngực mình, xuýt xoa.

“Thần thiếp không phải là không nghe chuyện này. Thần thiếp còn biết thái sư Lý Đạo Thành cũng đã tìm gặp bệ hạ nói giúp nhưng bị ngài trách phạt. Nương nương xem, đến cả Lý Đạo Thành là người bệ hạ tín cẩn như vậy nhưng vẫn không nói được, thần thiếp chỉ là một Nguyên phi thân cô thế cô, bụng mang dạ chửa, nếu lỡ làm bệ hạ phật lòng thì mẹ con thiếp biết gánh thế nào đây?”

Hồng Hạc biết Ỷ Lan cố tình làm khó, không màng thể diện nữa, quỳ xuống trước mặt Ỷ Lan, nước mắt lưng tròng.

“Ỷ Lan, xem như là ta cầu xin em. Chỉ cần hoàng thượng truy xét lại hoặc giả họ Dương bị lưu đày thôi cũng được. Số ta bạc phần không sinh được con trai, cả nhà họ Dương giờ đây chỉ có mỗi con trai của anh cả ta lo hương khói. Nếu nó chết đi thì dòng dõi nhà họ Dương bao đời nay tuyệt tự rồi.”

“Bây đâu, đỡ hoàng hậu dậy!” Ỷ Lan lúc này mới ngồi thẳng dậy, khẽ cau mày vì đột ngột đổi thế khiến bụng có chút đau.

“Nương nương, người đường đường là quốc mẫu mà lại quỳ trước mặt thần thiếp, nhỡ có ai không hiểu sự tình, đồn đại ra ngoài thì thiếp biết giải thích làm sao. Người đứng dậy đi, cái lạy của người thiếp không nhận được, chuyện của dòng họ Dương người, thiếp cũng lực bất tòng tâm!”

“Không! Ỷ Lan!” Hoàng hậu vùng khỏi tay cung nữ, lại đến quỳ rồi dập đầu trước Nguyên phi: “Ta biết chỉ cần em mở miệng, bệ hạ sẽ cân nhắc việc này. Em là mẹ ruột của thái tử, hiện tại còn đang mang long thai, chắc chắn bệ hạ sẽ để tâm lời nói của em. Từ lúc em vào cung ta chưa đối xử tệ bạc với em ngày nào, mong em hãy nghĩ đến tình này mà giúp ta một lần. Dù thành hay bại thì cả đời này, cả kiếp sau ta cũng nguyện mang ơn em, có làm trâu bò để trả ta cũng cam lòng.”

Ỷ Lan cười như không cười, để mặc cho Hồng Hạc dập đầu như thế. Cho đến khi phụng thể sắp không chịu nỗi nữa, cung nữ của hoàng hậu phải dìu người đứng dậy, chuẩn bị rời khỏi cung Du Thiền.

Sau lưng Hồng Hạc, tiếng Ỷ Lan vang lên.

“Nương nương nói phải, đúng là từ lúc thần thiếp nhập cung người chưa bạc đãi bao giờ. Lễ nghi trong cung cũng là người chỉ dạy. Những phi tần khác kiếm chuyện, cũng là người đứng ra bênh vực thiếp. Thiếp thừa hiểu những chuyện đó người làm chẳng qua là vì danh nghĩa hoàng hậu chứ chẳng phải thương yêu, nhưng có người đã dạy thiếp mang ơn thì phải trả ơn. Lần này thiếp sẽ đến xin bệ hạ truy xét lại chuyện của họ Dương. Tuy nhiên, có được hay không thần thiếp không dám cam đoan.”

Dương Hồng Hạc nghe xong, quay người lại, nước mắt lăn dài trên má, cúi đầu cảm ơn.

Thật sự Ỷ Lan làm đúng lời hứa, mang bụng bầu đến gặp Lý Nhật Tôn. Không ai biết Ỷ Lan nói gì, nhưng sáng hôm sau Nhật Tôn đã cho người điều tra lại. Tuy lần này em trai hoàng hậu cũng không thoát tội, nhưng chỉ chém đầu cả gia đình. Dương tể tướng cùng con trai cả bị cách chức, đày đến châu Nghệ An làm thường dân, con cái ba đời sau cũng không được làm quan.

*

* *

Đô úy Ngô Thường Kiệt sau buổi thiết triều, mượn cớ dâng sâm Cao Ly tìm gặp Ỷ Lan. Lúc này Ỷ Lan đã gần sinh, đi đứng có phần khó khăn. Cung nữ đỡ nàng đến ngồi trong đình rồi được lệnh lui xuống, Ỷ Lan gật đầu với Thường Kiệt, đôi mắt hiền hòa chẳng khác lúc mới nhập cung.

“Chú thắc mắc tại sao tôi lại xin cho Dương gia phải không?”

Thường Kiệt nhún vai.

“Thần không thắc mắc, cũng không can dự việc của nương nương. Lần này đến để tặng ít đặc sản của Cao Ly, sẵn tiện báo cho nương nương hay có thể vài tháng nữa Nguyễn Sùng sẽ vào hoàng cung thăm bệ hạ.”

Thường Kiệt rời khỏi, Ỷ Lan nhìn theo bóng lưng người. Chú ấy trước nay luôn giúp đỡ Ỷ Lan mà không dò hỏi nguyên nhân. Giống như năm ấy, nàng đã cầu xin Thường Kiệt tạo cơ hội để mình được gặp vua. Nếu không có sự tính toán của Thường Kiệt, một mình Ỷ Lan chưa chắc có thể đạt được mục đích như bây giờ. Ngay cả lúc nhập cung khi chỉ là một dân nữ, Ỷ Lan cũng không ngần ngại điều gì, vì cô tin rằng, phía sau lưng, Thường Kiệt sẽ luôn hậu thuẫn. Ngoài ra, còn có Nguyễn Sùng…

Thường Kiệt rời đi thì Hồng Hạc đến, phá tan cảm xúc của Ỷ Lan. Con chim phụng ngày nào cao sang quyền quý là vậy, hôm nay lại tiều tụy đến mức không thể nhận ra.

“Ỷ Lan, ta đến đây để cảm ơn em. Như những gì ta đã nói, em muốn ta đền đáp như thế nào, ta cũng vui lòng.”

Đến lúc này Ỷ Lan cũng không muốn nhìn thấy Dương Hồng Hạc nữa, lệnh cho cung nữ dìu mình rời khỏi vườn Quỳnh Lâm. Trước khi đi, không quên buông lại một câu.

“Đền đáp thế nào thì lần gặp tiếp theo thiếp sẽ nói cho nương nương nghe. Người xưa có câu gieo nhân nào gặt quả nấy. Phía trước vẫn còn dài, nương nương hãy cố xem những gì đến với mình.”

Dương Hồng Hạc ngạc nhiên nhìn Ỷ Lan, người đang đứng trước mặt có lúc lạ lúc quen, giờ đây lại khác vô cùng…

*

* *

Mùa đông năm Thần Vũ thứ ba (1071), Nhật Tôn bệnh nặng, cơ thể yếu đến mức không thể rời khỏi giường, việc triều chính giao cho Ỷ Lan, Thường Kiệt và Đạo Thành lo liệu. Thời gian này chỉ có thái y mới được ra vào điện Hội Tiên, còn những người khác ngài đều từ chối gặp.

Thuốc bổ do Hồng Hạc hay Ỷ Lan dâng lên, Nhật Tôn cũng không màng động đến. Có hôm, Ỷ Lan một tay dắt theo Càn Đức, một tay bế Càn Tín xin gặp, Tôn cũng chẳng đoái hoài. Những khi ấy, chỉ có thái giám Từ Viên đứng ngoài giải thích: “Bẩm, hoàng thượng thực sự không khỏe, người khó có thể gặp được ai.”

Trong số những người hay đến xin gặp đức vua, chỉ có Ngọc Kiều là kiên trì nhất. Từ lúc Nhật Tôn đổ bệnh, công chúa không màng việc học hành, mặc cho mẹ Ỷ Lan có trách, hằng ngày ngồi trong đình ở vườn Thượng Lâm nhìn về cánh cửa luôn đóng kín phía điện Hội Tiên.

Người ta thường bảo ơn sinh thành chẳng bằng ơn dưỡng dục, câu nói này thật sự đúng với Ngọc Kiều. Từ lúc vào cung, được Nhật Tôn hết lòng yêu thương dạy bảo, Ngọc Kiều quấn quýt phụ hoàng không rời. Cầm, họa, Phật pháp… bất kể là gì phụ hoàng thích, Ngọc Kiều cũng không ngại học hỏi, miễn sao có thể làm người vui lòng. Ngày thường phụ hoàng trông rất uy nghiêm, giờ đây lại nằm một chỗ, Ngọc Kiều có thể tưởng tượng phụ hoàng khó chịu đến nhường nào.

Nhiều đêm, có những giấc mơ khiến Ngọc Kiều khóc ướt đẫm gối nằm, cảm giác mùa đông năm xưa ùa về, lúc cha ruột là Phụng Càn vương qua đời, bỏ lại mình bơ vơ. Đôi khi Ngọc Kiều suy nghĩ, nếu chẳng may phụ hoàng không vượt qua được, công chúa sẽ xin mẹ Ỷ Lan, được chôn cùng phụ hoàng.

Sự kiên nhẫn của Ngọc Kiều cuối cùng Nhật Tôn cũng đón nhận. Đêm giao thừa khi thấy công chúa vẫn ngồi lại vườn Thượng Lâm, thái giám Từ Viên cầm lòng không nổi, vào bẩm báo với đức vua và công chúa được vào trong thăm phụ hoàng. Nhìn hoàng thượng ngày nào còn oai phong lẫm liệt, nay nhợt nhạt ngồi trên giường, lưng tựa vào gối một cách khó nhọc mà Ngọc Kiều không khỏi xót xa. Công chúa bật khóc thành tiếng, vì thương phụ hoàng và cũng vì tủi thân suốt mấy tháng qua không gặp được người.

Nhật Tôn gọi Ngọc Kiều lại giường, dang tay ôm chầm lấy con gái. Công chúa thì khóc nức nở, còn vua thì mỉm cười xoa đầu con.

“Phụ hoàng cho Ngọc Kiều ở lại chăm sóc người đi, Ngọc Kiều không muốn xa phụ hoàng đâu.”

Trước sự thành khẩn ngây ngô của con, Nhật Tôn ôn nhu đồng ý.

Năm nay vì vua bệnh nên hoàng cung đón giao thừa không có tiếng pháo giòn tan hay tiếng nói cười rộn rã. Chỉ có ngoài cửa sổ, những vì sao thi nhau lấp lánh trên bầu trời.

Khi Ngọc Kiều đã ngủ quên, Từ Viên hỏi Nhật Tôn có nên cho người đưa công chúa về Tử Ngọc cung không thì Nhật Tôn lắc đầu: “Cứ để công chúa ngủ ở đây, có lẽ cũng không được mấy ngày nữa đâu.”

Cửa sổ vẫn để hé đủ cho Nhật Tôn có thể nhìn ra ngoài. Người bỗng nhớ về những chuyện cũ, từ lúc người còn là Tam hoàng tử, đến khi trở thành Khai Hoàng vương rồi sắc phong thái tử và tiếp tục ngôi vua của tiên đế Thái Tông. Cuộc đời người đã trải qua bao nhiêu trận chiến. Bên ngoài có Đại Tống, Chân Lạp, Chiêm Thành; bên trong có phản tặc Nùng Trí Cao ở Quảng Nguyên cả những trận đánh lớn nhỏ khác. Giờ đây, đất nước đã thái bình, trọng trách của Nhật Tôn xem như đã hoàn thành, có thể về với cõi vô thường.

Nhật Tôn có hai thuộc hạ tín cẩn là Ngô Thường Kiệt, lúc này đã được thăng chức Thái phó, ban họ Lý và tể tướng Lý Đạo Thành. Từ lúc còn trẻ cả ba đã cùng nhau vào sinh ra tử cho đến hiện tại cả hai người vẫn một dạ trung thành. Nhưng lúc này đây, người mà Nhật Tôn muốn gặp nhất, cũng là người Nhật Tôn xem như tri kỷ - Nguyễn Sùng. Từ lúc người lên ngôi vua, Nguyễn Sùng bảo rằng quyết định xuất gia và rời khỏi hoàng cung, gần hai mươi năm nay không còn nghe bất kỳ tin tức. E là đến khi rời khỏi dương thế, Nhật Tôn cũng không thể gặp lại Nguyễn Sùng lần nào.

Nhưng xem ra ông trời rất ưu ái thiên tử, ngay lúc đó, cửa điện Hội Tiên mở ra, thân hình thanh niên tuổi ngoài đôi mươi thong thả bước vào. Người thanh niên ấy mặc bộ xiêm y màu nâu, tóc búi cao trên đỉnh đầu, buộc lại bằng một dây lụa màu xanh nhạt.

“Đã lâu không gặp, cậu có bất ngờ không, Tôn?”

Chẳng hiểu từ đâu cơ thể Nhật Tôn lại có sức lực, người cười to một tiếng thật giòn.

“Ha, Nguyễn Sùng, tôi tin cậu sẽ tìm gặp tôi mà!”

Thời gian có vẻ đã bỏ quên Nguyễn Sùng, lúc Nhật Tôn gặp Sùng, hai người tuổi độ ngang nhau. Giờ đây tóc Tôn đã bạc, còn Sùng vẫn như trước, dáng vẻ của một thanh niên đôi mươi.

Nguyễn Sùng ngó qua Ngọc Kiều đang say ngủ, rồi nhỏ giọng nói với Nhật Tôn.

“Tôi đến đây để gặp cậu lần cuối, cũng là tiễn cậu một đoạn đường.”

Lý Nhật Tôn vẫn mỉm cười thư thả. Từ lúc sinh ra, cuộc đời người đã gắn liền với Hoàng thành, năm mươi năm cũng xem là quá dài. Càn Đức tuy còn nhỏ nhưng bên cạnh còn Ỷ Lan với Thường Kiệt, Đạo Thành, chắc chắn sẽ hết lòng phò trợ. Điều duy nhất người lo, chính là Ngọc Kiều, nếu phụ hoàng mất đi chắc con bé sẽ rất đau lòng.

Nguyễn Sùng như hiểu tâm tư bạn thân, nhún vai.

“Sinh lão bệnh tử là chuyện thường tình của một đời người. Giờ số cậu đã tận thì hãy để nó tận, đừng vương vấn thêm làm gì. Người chết cứ chết, người còn sống sẽ tiếp tục lo chuyện của mình. Cậu tránh day dứt quá nhiều rồi lại mang uất hận, không thể siêu thoát.”

Nói rồi Sùng tháo mảnh lụa màu xanh nhạt trên tóc, gửi lại cho Nhật Tôn.

“Nó theo tôi cũng đã lâu, như minh chứng cho tình bạn của chúng ta. Giờ đây, tôi đã đổi tên thành Nguyễn Chí Thành. Sau khi cậu mất tôi cũng sẽ xuống tóc, nên cậu hãy giữ lại vật này, xem như Nguyễn Sùng cũng mãi mãi đi theo cậu.”

Mùa xuân năm Thần Vũ thứ tư (1072), trời mưa xối xả, Nhật Tôn băng hà ở điện Hội Tiên. Cung nhân Hoàng thành than khóc, tiếng khóc như át tiếng mưa.

Sau khi an táng Nhật Tôn vào Thọ Lăng, Lý Càn Đức lên ngôi. Dương Hồng Hạc được tôn làm thái hậu, Nguyên phi Ỷ Lan tôn làm hoàng thái phi. Thái hậu buông rèm nhiếp chính với sự hỗ trợ của thái sư Lý Thường Kiệt và tể tướng Lý Đạo Thành.

An táng Nhật Tôn xong Ngọc Kiều đổ bệnh, Ỷ Lan thương công chúa nên sai người mang con sang cung của mình, chăm sóc cùng với tam hoàng tử Lý Càn Tín – đã được phong vị Sùng Hiền hầu. Càn Tín nằm trong nôi giật mình quấy khóc, Ỷ Lan sợ làm ồn Ngọc Kiều thức giấc nên bế con lên vai, vỗ nhẹ vào lưng và khe khẽ hát ru.

Cung nữ vào thông báo, Nguyễn Sùng cầu gặp, Ỷ Lan vội vàng giao Càn Tín cho cung nữ, chỉnh trang lại y phục, vừa thấy Sùng bước vào đã cúi đầu.

“Cháu chào chú!”

Trong giây phút ấy, tất cả uy nghiêm của một thái phi không còn nữa. Ỷ Lan chẳng khác nào cô gái năm xưa ở ruộng dâu, đơn giản thật thà.

Nguyễn Sùng đón tách trà từ tay Ỷ Lan, nhấp một ngụm rồi nói.

“Cung của cháu ngột ngạt quá, oán khí vẫn còn nhiều như vậy à?”

Chỉ một câu nói của Nguyễn Sùng, mắt Ỷ Lan hoe đỏ: “Chú ơi cháu đã đợi ngày này rất lâu, cháu sắp trả thù được cho chị rồi.”

“Khiết An à, con người ta ràng buộc nhau bởi duyên và nợ. Có thể trước đây Dương Hồng Hạc đã gây ra sai lầm với chị của cháu. Nhưng căn bản đó cũng là nghiệp mà chị cháu phải nhận. Giờ đây cháu có thể lựa chọn trả thù hoặc tha thứ, ta không can thiệp. Nhưng cháu nên nhớ, cháu gieo nhân nào thì cháu gặt quả nấy. Những gì cháu làm hôm nay, hãy chuẩn bị tinh thần con cháu của cháu sẽ nhận lãnh sau này.”

Nguyễn Sùng chỉ nói đôi câu như thế rồi rời khỏi cấm cung, rời khỏi Hoàng thành. Cho đến mãi sau này khi Ỷ Lan mất đi, nàng cũng không gặp lại y thêm lần nào nữa.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

The Zest

Gà con
Tham gia
13/12/15
Bài viết
41
Gạo
0,0
Hi, xin chào Búp Bê nha, mình mới đọc 2 chương mới nhất của bạn đăng tháng 11. Năm 2017 mình cũng là độc giả của Trần Chân, không biết Lê Khiết An có mối liên hệ nào với Trần Chân không mà mình cảm tưởng có một phép màu thần kì nào đó đã đưa Trần Chân trở lại để trả thù Dương hoàng hậu. =)))

Sẽ tiếp tục dõi theo và ủng truyện của bạn. <3
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Septvn

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
☆☆☆
Tham gia
7/5/17
Bài viết
211
Gạo
900,0
Hi, xin chào Búp Bê nha, mình mới đọc 2 chương mới nhất của bạn đăng tháng 11. Năm 2017 mình cũng là độc giả của Trần Chân, không biết Lê Khiết An có mối liên hệ nào với Trần Chân không mà mình cảm tưởng có một phép màu thần kì nào đó đã đưa Trần Chân trở lại để trả thù Dương hoàng hậu. =)))

Sẽ tiếp tục dõi theo và ủng truyện của bạn. <3
Chào Zest, đầu tiên xin lỗi do hổm rày mình không vô được Gác nên rep cmt hơi chậm, sau là cảm ơn bạn đã theo dõi truyện.
Giữa Trần Chân và Lê Khiết An có mối liên hệ, trong TC cũng có đề cập đến việc này. Hoặc rõ nhất là ngoại truyện cuối cùng Bầu trời của Niệm Chân sẽ có diễn giải một chút.
Chim sẻ trắng trên mái Hoàng thành là câu chuyện tiếp nối đời sau của những nhân vật trong TC. Tuy là tiếp nối nhưng hoàn toàn là một câu chuyện khác. Hy vọng bạn tiếp tục theo dõi đến chương cuối cùng nhé.
:x:x:x
 

Septvn

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
☆☆☆
Tham gia
7/5/17
Bài viết
211
Gạo
900,0
Chương 3: Dòng dõi nhà họ Dương


Đại Việt, triều Lý thứ tư: Lý Càn Đức

Lý Càn Đức lên ngôi vua đời thứ tư của triều Lý khi vừa tròn bảy tuổi (1072), đổi niên hiệu thành Thái Ninh.

Thái Ninh năm thứ hai (1073), trời mưa mãi không ngớt, vùng nào trũng thì ngập lụt, vùng cao hơn cây lúa vừa nảy mầm đã bị úng. Khắp nơi dân chúng lâm vào cảnh lầm than. Chưa bàn đến việc không có tiền để nộp thuế, ngay cả từng bữa ăn hằng ngày cũng chật vật vô cùng. Có nơi vì quá bần cùng, người dân lập nhóm cướp bóc, liều mạng chạy đến kho lương thực của triều đình tại địa phương, phá cửa tìm thức ăn.

Tấu chương trình lên vua về việc này tăng lên mỗi ngày. Mặc dù triều đình đã có lệnh cung cấp lương thực đến những vùng đói nhưng nước xa không cứu kịp lửa gần. Việc đắp đê cũng vì trời mưa không dứt mà không thể nào hoàn thành được.

Khi sức người đã không địch nổi ý trời, thì chỉ còn cầu mong thần Phật ban phước. Buổi sáng hôm ấy tại điện Thiên An, có nhóm quần thần đưa ra ý kiến.

“Bẩm bệ hạ, việc mưa lũ liên miên trong thời điểm này, lại vừa vặn trùng với chuyện năm xưa Thủy Tinh không lấy được công chúa Mị Nương nên tức giận gây chiến. Nếu đây là chuyện Thủy Tinh gây ra, thì chúng ta chỉ có thể cầu ngài Sơn Tinh giúp đỡ. Nếu bệ hạ có thể xuất hành lên núi Tản Viên, thành tâm cầu xin ngài Sơn Tinh, biết đâu có thể giúp Đại Việt vượt qua nạn mưa lũ lần này.”

Càn Đức nghe ý kiến cũng thấy khá hay nhưng vẫn quay sang xin ý của thái hậu: “Mẫu hậu nghĩ sao về việc này?”

Dương Hồng Hạc phía sau rèm buông, tay vẫn lần từng hạt chuỗi, đáp lời Càn Đức: “Ta thấy các bá quan nói cũng rất phải. Phàm việc gì đã nằm ngoài khả năng của con người thì chỉ còn cách trông cậy vào ý Trời!”

Lý Đạo Thành trước giờ vẫn đứng về phía Dương Hồng Hạc nên Càn Đức hỏi tiếp ý kiến Lý Thường Kiệt.

“Bẩm bệ hạ, nắng mưa vốn lẽ là chuyện của tự nhiên, của đất trời. Mặc dù thần không tin vào việc chỉ cần cầu nguyện cũng có thể xoay chuyển nhưng bệ hạ mới lên ngôi, lại gặp chuyện như vậy, nếu không làm gì thì ắt có lời vào lời ra nên việc đến núi Tản Viên như các vị ở đây thưa cũng là ý hay. Nhưng bên ngoài mưa lũ liên miên, thời tiết khắc nghiệt, bệ hạ lại còn quá nhỏ, long thể chưa thực sự rắn rỏi để vượt một đoạn đường xa như thế. Nên việc di chuyển đến núi Tản Viên xin hãy giao cho chúng thần tử, còn người có thể đến chùa Diên Hựu (chùa Một Cột), cùng trụ trì cầu cho mưa thuận gió hòa. Hạ thần ngu muội đề xuất như vậy, kính mong bệ hạ và thái hậu xem xét.”

Lời của Thường Kiệt nói không phải là không hợp lí. Quả thực nếu đích thân Càn Đức đi đến núi Tản Viên thì sẽ thể hiện hết tấm lòng thiên tử, nhưng Càn Đức hiện tại chỉ mới tám tuổi, nếu chẳng may có chuyện không hay xảy ra thì biết liệu thế nào. Vậy nên như lời Thường Kiệt, việc ấy vẫn nên để người khác đi thay.

Người thay vua làm việc này phải thật sự là người có đủ quyền uy và được vua hết lòng tín cẩn. Trong triều hiện tại chỉ có hai vị như vậy, Lý Thường Kiệt và Lý Đạo Thành. Xét về cấp bậc thì Đạo Thành hơn Thường Kiệt một bậc còn xét về đức tin thì Thường Kiệt trước nay chỉ tin vào người, không tin vào thần nên trọng trách lần này thuộc về Lý Đạo Thành.

Trước khi lên đường đến núi Tản Viên, Đạo Thành đến nói với Hồng Hạc: “Chuyến này thần đi không có lo lắng gì cho bản thân, nhưng lại không yên tâm về phía thái hậu. Chỉ mong thái hậu ở lại, mọi việc phải hết sức cẩn trọng, nếu có bất trắc thì cho bồ câu đưa thư gấp đến cho thần, thần sẽ lập tức quay về.”

Dương Hồng Hạc nghe Đạo Thành nói, mỉm cười trấn an.

“Hiện tại mọi chuyện vẫn ổn, ta hằng ngày chỉ có chép kinh niệm Phật thôi thì làm gì có chuyện được. Ta tin chắc Bồ Tát và tiên đế sẽ phù hộ cho mình. Ông cứ yên tâm đi đi, nếu lần này thành công cầu được mưa thuận gió hòa, sẽ hỗ trợ rất nhiều cho ấu chúa.”

Dù trong lòng đầy bất an nhưng Lý Đạo Thành cũng phải xuất hành cho kịp thời gian. Hai hôm sau khi Đạo Thành rời khỏi Thăng Long, Ỷ Lan đổ bệnh, Hồng Hạc đích thân đến thăm. Từ lần cuối cùng đến cầu xin Ỷ Lan nói với tiên đế về chuyện dòng họ Dương, cho đến lúc này thái hậu mới quay trở lại cung Du Thiền. Hồng Hạc rất sợ cảm giác tại đây, mỗi lần bước vào cứ như có oán khí dành hết cho mình.

Ỷ Lan ngồi trên ghế, tay cầm lục lạc chơi đùa với Càn Tín, sắc diện không có nét của một người bị bệnh. Hồng Hạc tuy thấy vậy nhưng vẫn ân cần hỏi han.

“Ta nghe cung nữ báo tin em bị bệnh, em thấy trong người thế nào rồi. Bên cung ta có một ít thuốc bổ, ta có mang sang để em dùng cho mau khỏe.”

Ỷ Lan cho bảo mẫu bế Càn Tín ra ngoài, các cung nữ khác cũng được lệnh lui ra. Đích thân nàng rót trà, kính cẩn dâng cho thái hậu.

“Đêm qua em mơ thấy Thánh Tông.” Ỷ Lan mở đầu câu chuyện trong đôi mắt đầy ngạc nhiên của Hồng Hạc: “Ngài nói với em rằng ngài cảm thấy có một day dứt mà cho đến khi băng hà vẫn không thực hiện được. Chị có biết đó là gì không?”

Hồng Hạc lắc đầu, Ỷ Lan lại tiếp tục.

“Thánh Tông nói với em rằng chị đối với ngài một mực trung thành. Khi ngài còn là Khai Hoàng Vương, chị và dòng họ Dương đã hết lòng phò trợ. Sau này, khi ngài đã là vua, một phần vì e ngại thế lực họ Dương quá lớn nên không thể thật tâm mà đối đãi với chị như những người khác. Ngài có những nỗi khổ của riêng mình, mong chị hiểu cho. Ngài bảo em phải chăm sóc chị thật tốt.”

Không biết những lời Ỷ Lan nói là giả hay thật, nhưng Hồng Hạc lại cảm thấy tủi thân. Bao nhiêu cảm xúc dồn nén trong lòng mấy mươi năm qua biến thành giọt lệ lăn dài trên má. Ỷ Lan thấy vậy, nhanh chóng dùng khăn lụa lau cho thái hậu. Đoạn, nàng lại nói tiếp.

“Em không muốn phụ ủy thác của tiên đế, nhưng biết bao đêm em khóc trong mơ vì xót xa cho ngài, chắc ngài cô đơn lắm. Nên lần này em muốn trình với chị, mong chị có thể thay em hỗ trợ ấu chúa việc chính sự, chăm sóc Càn Tín nên người. Còn em, chắc có lẽ em sẽ đi theo tiên đế để tiếp tục được hầu hạ ngài.”

Chuỗi hạt đeo tay của Dương Hồng Hạc đột nhiên đứt, hạt tràng rơi tung tóe lên nền gạch trong phòng. Thái hậu đã hiểu ra ý muốn trong lời lẽ của Thái phi. Lần này, điều Ỷ Lan muốn cuối cùng chính là mạng sống của người.

Hồng Hạc cười như không cười, nói với Ỷ Lan: “Khi nãy ta thấy lúc em chơi đùa với Càn Tín rất vui vẻ, đứa trẻ nhỏ cũng rất quấn mẹ, khi bảo mẫu bế đi còn giãy khóc không chịu. Tình cảm mẹ con bền chặt như vậy, làm sao ta có thể giương mắt nhìn mẹ con em phải xa nhau.”

Hồng Hạc ngừng lại, ho một tiếng rồi nói tiếp.

“Khi xưa tiên đế chính thức cưới ta về, ta được cùng với ngài trải qua biết bao nhiêu là chuyện, ta chưa từng oán trách bất kỳ việc gì ngài làm, ngay cả với họ Dương. Số ta bạc mệnh không con không cái, cha mẹ từ lâu cũng đã không còn. Thời gian qua cũng chỉ xem như là sống lay lắt qua ngày, chỉ mong mau chóng được đoàn tụ với tiên đế. Giờ ta đã biết tiên đế cô đơn như vậy, bổn phận làm vợ, ta không thể nào xem như không được, em hãy chăm sóc cho bệ hạ thật tốt, còn việc hầu hạ tiên đế, ta sẽ tiếp tục chức trách này.”

“Không được, chị là thái hậu một nước, sao có thể làm điều ấy được.” Ỷ Lan khước từ.

“So với ta thì bệ hạ cần em hơn. Em từng nhiếp chính khi tiên đế ra trận, em thông tuệ chuyện chính sự hơn ta, có thể phò tá bệ hạ tốt hơn ta. Điều tốt nhất ta có thể làm là dành hết tâm tư này cho tiên đế, hy vọng em đừng tranh giành với ta việc này.”

Ỷ Lan nghe xong, nắm lấy tay Hồng Hạc, siết chặt như rất thân thiết.

“Nếu chị đã nói vậy thì em không dám cãi. Xem như chị đi trước một bước chăm sóc tiên đế. Khi bệ hạ đã vững vàng ngôi vị, em sẽ tìm gặp ngài và chị. Trong buổi thượng triều ngày mai, hy vọng chị hãy nói ra để quần thần không dị nghị trước sau, gây khó xử cho bệ hạ.”

Dương Hồng Hạc chậm rãi gật đầu.

“Ỷ Lan, trước ta từng cầu xin em giúp đỡ dòng họ Dương thoát tội chết, ta vẫn còn ghi cái ơn đó trong dạ. Nhưng lần này, cho ta tham lam cầu xin em một lần nữa.”

“Giữa chúng ta còn điều gì phải ngại ngùng hay sao, chỉ cần là điều chị mong muốn, Ỷ Lan sẽ cố gắng hết mình.”

“Tiên đế đã ban chỉ dòng họ Dương ba đời không được làm quan. Gia đình anh trai ta cũng đã ra châu Nghệ An, sống cuộc sống của dân thường. Ta chỉ lo sau khi ta đi theo tiên đế, anh ta không còn ai chống lưng sẽ bị những kẻ thù trước đây kiếm cớ hãm hại. Xin em hãy bảo vệ gia đình anh trai ta, dòng họ Dương hiện tại chỉ còn lại gia đình của anh ấy mà thôi.”

“Em nhớ không nhầm thì Dương Đức Huy có một con trai và ba con gái. Em hứa với chị, cả bốn đứa trẻ đều sẽ được ban hôn với hoàng tộc hoặc vào nhà quyền quý. Riêng một trong ba đứa bé gái, sẽ có một đứa gả cho bệ hạ. Chị thấy có được không?”

“Cảm ơn em!”

Dương Hồng Hạc cúi đầu rồi lặng lẽ rời khỏi cung Du Thiền. Sau bao nhiêu năm, cuối cùng cũng đến khi người cảm thấy lòng mình như trút đi gánh nặng, bước chân bỗng nhẹ tênh. Bên ngoài trời vẫn mưa, nước mưa dâng lên trong sân, ngập nửa đế giày. Hồng Hạc bước thật chậm, thỉnh thoảng lại nhìn xuống những viên gạch in hình hoa cúc dưới chân mình. Đời người những tưởng lâu, ngờ đâu nhìn lại chỉ như một cái chớp mắt.

Bên tai Hồng Hạc như còn văng vẳng giọng nói của cha khi nàng vừa tròn mười sáu: “Con vì mang họ Dương mà có mệnh làm hoàng hậu, con phải nhớ, tất cả những chuyện sau này con làm, đều phải nghĩ đến dòng dõi nhà ta.”

Ba ngày sau Lý Càn Đức ban thuốc độc cho Thượng Dương thái hậu và bảy mươi hai cung nữ của bà rồi chôn theo lăng của Thánh Tông để hầu hạ người.

Tể tướng Lý Đạo Thành nghe tin thái hậu qua đời, bỏ dỡ việc cầu Sơn Tinh, tức tốc từ núi Tản Viên quay về kinh đô nên bị giang chức xuống làm Tả gián nghị Đại phu và chuyển đi trấn thủ Nghệ An.

Thái phi Ỷ Lan phong làm Linh Nhân thái hậu, buông rèm nhiếp chính. Thái úy Lý Thường Kiệt giữ vai trò phụ chính trong triều đình.

Giữ đúng lời hứa với Dương Hồng Hạc, Ỷ Lan sắp xếp cho con trai Dương Đức Huy là Dương Đức Dục cưới con gái duy nhất của thương gia họ Nguyễn tại Nghệ An. Con ba người con gái, cô cả Ngọc Vân nhập cung, phong làm Lan Anh phu nhân; cô thứ hai Ngọc Thủy làm vợ Thành Khánh hầu và cô thứ ba Ngọc Hoa gả cho Thành Quảng hầu.

Năm Hội Tường Đại Khánh thứ nhất (1110), Dương Ngọc Hoa sinh con đầu lòng, đặt tên Lý Dương Côn. Lúc này Lý Càn Đức đã ngoài bốn mươi nhưng vẫn chưa có con trai, Lan Anh phu nhân thì không sinh được nên xin phép vua cho nhận Lý Dương Côn làm nghĩa tử. Dương Côn mặt mày sáng sủa, Càn Đức và Lan Anh hết mực thương yêu.

Năm Hội Tường Đại Khánh thứ hai (1111), Dương Ngọc Thủy sinh con thứ là con trai, đặt tên Lý Công Hoan.

Đâu đó có lời đồn đại rằng con gái họ Dương nếu vào cung sẽ không sinh được con cái. Năm xưa Thượng Dương thái hậu đã như thế, giờ đây, Lan Anh phu nhân cũng chẳng khác cô ruột của mình. Còn Dương Côn, khi mới nhập cung vốn thông minh khỏe mạnh, nhưng một thời gian sau cơ thể yếu ớt dần, người càng lúc càng gầy, bao nhiêu thái y cũng không chẩn được bệnh. Đức vua xót thương con, ban lệnh cung nhân chuẩn bị không biết bao nhiêu thuốc bổ, nhưng hoàng tử không hấp thu được. Đến cả Linh Nhân thái hậu mỗi tháng cũng tình nguyện ăn chay niệm Phật mười ngày để cầu Bồ Tát phù hộ cho đứa trẻ này. Lan Anh phu nhân thấy con như vậy, trong lòng cũng đau xót, cơ thể dần suy nhược theo thời gian.

Năm Hội Tường Đại Khánh thứ sáu (1115), Lý Càn Đức phong Lan Anh phu nhân làm hoàng hậu.

Năm Hội Tường Đại Khánh thứ bảy (1116), cha ruột Lan Anh hoàng hậu là Dương Đức Huy qua đời, hoàng hậu khẩn xin vua cho phép người đưa hoàng tử Dương Côn về Nghệ An chịu tang cha. Lý Càn Đức dù không đành lòng để hoàng hậu đi đường xa trong tình trạng sức khỏe hiện tại, nhưng vì Lan Anh quá khẩn khoản nên người cũng bằng lòng. Để tránh đi đường xa xe xốc, đồi núi hiểm trở, Càn Đức cho người chuẩn bị thuyền đưa hoàng hậu cùng hoàng tử vào Nghệ An. Chỉ tạm xa nhau trong thời gian ngắn ngủi, nhưng sao lúc tiễn người đi lòng vua lại bịn rịn vô cùng!

Đúng như lo lắng của Càn Đức, chỉ vài ngày sau tin truyền về biển Đông có bão lớn, đoàn thuyền hộ tống hoàng hậu về Nghệ An bị đắm bốn chiếc, trong đó có thuyền của hoàng hậu và hoàng tử. Tổng số người trên thuyền hơn năm mươi, nhưng chỉ tìm được xác khoảng mười người. Số còn lại, dường như đã theo cơn sóng dữ, chìm sâu xuống lòng đại dương…

Cũng vào năm ấy, con trai đầu lòng của Sùng Hiền hầu Lý Càn Tín – em ruột đức vua được Đỗ thị sinh ra. Đó cũng lại là vào một ngày mùa hạ, mưa ngập Hoàng thành.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Septvn

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
☆☆☆
Tham gia
7/5/17
Bài viết
211
Gạo
900,0
Chương 4: Đứa trẻ mang chân mệnh Thiên Tử


Đại Việt, triều Lý thứ tư: Lý Càn Đức

Mây đen kéo đến bao phủ cả bầu trời cấm thành, nhấn chìm mọi thứ vào trong bóng tối. Gió lốc đập vào cửa sổ đang mở vang lên âm thanh cót két. Đám cung nữ vội vàng chia nhau đóng tất cả cửa lại. Thật nhanh sau đó, ánh nến bừng sáng bên trong điện Vĩnh Quang, soi rõ thân ảnh Lý Càn Đức đang ngồi nơi bàn.

“Bẩm bệ hạ, bên ngoài gió mạnh, dự là chốc nữa mưa sẽ to, người khoác thêm áo để tránh cảm lạnh.”

Một cung nữ tay cầm theo áo choàng màu vàng, bên trên có thêu hình rồng đang uốn lượn giữa những đám mây, kính cẩn nói với vua. Lúc này, Càn Đức mới ngẩng mặt lên, ôn tồn bảo.

“Trẫm vẫn cảm thấy nóng.”

“Vậy để con quạt cho người.”

“Không cần, ngươi lui đi.”

“Bẩm, vậy con ra sau mành, có việc sai bảo xin bệ hạ gọi con.”

Lý Càn Đức mở thêm vài bản tấu chương rồi lại vứt sang một bên, ngã người ra ghế, thở dài. Phần lớn trong số tấu chương ấy đều thúc giục ông lập thái tử. Con trai của Nhân Nghĩa hầu, Trung Tín hầu lần lượt được lôi vào việc này. Càn Đức tuổi ngoài năm mươi, tự biết bản thân mình đã không thể sinh con được nữa, nhưng con trai của Nhân Nghĩa hầu và Trung Tín hầu, nếu không phải là dạng được nuông chiều thành hư thì cũng là kiểu an phận thủ thường, không nuôi chí lớn. Giang sơn này tổ tông đã hy sinh biết bao máu xương để gìn giữ, ông không muốn vì lựa chọn sai lầm của mình mà kết thúc tại đây. Linh Nhân thái hậu cũng khuyên ông không nên gấp gáp, cứ phớt phờ đám đại thần ấy. Bà kể như tiên đế Thánh Tông mãi đến bốn mươi vẫn chưa có con, trong triều cũng thúc giục chọn thái tử từ chi hoàng thân quốc thích. Nhưng sau đó thì sao, chẳng phải Thánh Tông cũng đã sinh ra Càn Đức, danh chính ngôn thuận truyền lại ngôi vua cho đích tử của mình. Linh Nhân không đơn thuần là một nữ nhân nơi cung cấm, ngồi chờ đức vua sủng ái để hạ sinh thái tử rồi hưởng vinh hoa. Năm xưa bà đã thay Thánh Tông hai lần nhiếp chính, đến khi ngài băng hà, Càn Đức chỉ mới bảy tuổi, vẫn là một tay bà hỗ trợ để Đại Việt được an yên như hôm nay. Đối với bà, Đại Việt này đã như một phần máu thịt, là trọng trách mà bà tự nhận phải có trách nhiệm gánh vác trọn đời. Vì vậy, bà sẽ không bao giờ cho phép vương vị này rơi vào tay ngoại tộc.

Linh Nhân thái hậu sinh hạ được ba con trai, nhưng một trong ba đã qua đời từ rất sớm. Hiện nay ngoài Càn Đức, còn một em trai là Lý Càn Tín, được phong Sùng Hiền hầu. Lý Càn Tín cũng muộn đường con cái, đến khi ngoài bốn mươi thì phu nhân Đỗ thị của ông mới mang thai, dự là sắp đến ngày trở dạ. Linh Nhân thái hậu từng nhờ quốc sư lẫn thái y xem xét, tất cả đều đồng thuận rằng đứa bé ấy là con trai. Linh Nhân từng nói với Càn Đức, chỉ cần đứa bé đó được sinh ra, chắc chắn là người duy nhất để kế thừa ngôi vị này. Lý Càn Đức ba phần thương yêu, bảy phần kính nể thái hậu nên mắt nhắm mắt mở trước đống tấu chương ấy, cố gắng chờ cho đến khi Đỗ thị lâm bồn.

Nhưng, lỡ như đứa bé ấy là gái, thì sẽ thế nào?

“Phải chi Dương Côn vẫn còn…”

Lý Càn Đức vẫn đau đáu nhớ về Lý Dương Côn, con của em gái Lan Anh hoàng hậu và Thành Quảng hầu. Đứa trẻ ấy mắt sáng trán cao, đoán được sau này lớn lên sẽ trở thành một người ưu tú. Ai cũng bảo rằng Lan Anh cùng Dương Côn đã mất, nhưng Càn Đức không tin điều ấy, ông vẫn hy vọng chỉ là mất tích thôi, rồi một lúc nào đó cả hai người sẽ quay về. Nhưng mấy tháng trôi qua, Lan Anh và Dương Côn đều không có bất kỳ tin tức nào. Hy vọng trong lòng của Càn Đức cũng theo thời gian mà leo lắt như ngọn đèn trước mắt ông.

Bên ngoài có tiếng gõ cửa, tiếp sau đó là viên thái giám vội vã chạy vào, cúi người tâu.

“Bẩm bệ hạ, gia nhân phủ Sùng Hiền hầu đến truyền tin, phu nhân đã trở dạ, là một vương tôn.”

Một ngọn đèn trong phòng vụt tắt. Lý Càn Đức mở to mắt nhìn vào hư không, biểu cảm trong mắt, chẳng rõ là vui hay buồn.

*

* *

Không lâu sau đó, phủ Sùng mở tiệc linh đình mừng con trai đầy tháng. Quan viên cấp cao cùng các nhà quyền quý đổ xô đến chúc mừng Sùng Hiền hầu. Đến lúc này còn ai không rõ tâm ý thái hậu là muốn giữ ngôi thái tử cho cháu nội đích tôn của mình. Từ lúc đứa bé được sinh, bao nhiêu quà mừng, kì trân dị bảo gửi đến phủ Sùng không ngơi nghỉ. Thậm chí, có nhà còn gửi hẳn ngày sinh bát tự của con gái mình đến cho Sùng Hiền hầu. Tất cả tiểu thư ấy đều có ngày sinh đại cát, nếu kết duyên cùng con trai Sùng sẽ càng làm tăng phúc khí. Mọi thứ dồn dập đến mức Đỗ thị - phu nhân của Sùng phải thốt lên.

“Bọn họ trước kia thấy con trai nhà Thành Quảng hầu được phong hoàng tử thì tới lui nịnh bợ, vốn chẳng xem nhà ta ra gì. Giờ đây, hoàng tử gặp chuyện, nhà ta có con trai thì lại quay sang lễ nghĩa. Đúng thật là đời dưa nói dưa đỏ, đời mít khen mít thơm mà!” (1)

(1) Đời dưa nói dưa đỏ, đời mít khen mít thơm: chỉ hạng tráo trở, nịnh hót, xu thời.

Sinh được con nối dỗi, Sùng Hiền hầu vui tám phần thì Linh Nhân thái hậu có lẽ là vui đến mười phần. Suốt khoảng thời gian đó, bà không tiếc ban thưởng cho cháu trai biết bao hiện kim ngọc quý. Giống như hôm nay, khi cùng Càn Đức đến phủ Sùng nhân dịp đầy tháng, bà còn cho cung nhân chuẩn bị một khối ngọc Như Ý dài ba tấc, ban ngày sáng bóng, trong tối như phát quang khiến ai nấy đều trầm trồ. Giữa âm thanh xôn xao bàn tán của đám đông, đứa bé trên tay Đỗ thị bật khóc. Đỗ thị cuống quýt dỗ dành mãi cũng không ngăn được trẻ thơ. Linh Nhân chìa hai tay về phía Đỗ thị, vừa nói cũng là vừa ra lệnh.

“Đưa cháu đây, ta bế một lúc.”

Đỗ thị kính cẩn giao con cho Linh Nhân thái hậu. Mọi người cũng hồi hộp quan sát diễn biến tiếp theo. Đứa bé rõ ràng đang mở to miệng khóc, Linh Nhân dùng tay gõ nhẹ vào môi, nhẹ nhàng nói.

“Miệng khóc oe oe, lời nói vạn người nghe!”

Dù cho chuyện đứa bé có khả năng kế thừa ngôi vị thái tử thì ai cũng biết, nhưng đó chỉ đơn giản là mọi người hiểu như vậy, từ phía nhà vua vẫn chưa có động thái gì. Vậy mà giờ đây, trước mặt bao nhiêu đại thần đương triều, Linh Nhân mở lời như thế khiến Càn Đức bị đẩy vào thế tiến thoái lưỡng nan. Không gian càng yên ắng hơn, đến mức đứa bé đang há miệng khóc cũng như nhận ra sự khác lạ, tiếng khóc nhỏ dần rồi im bặt. Đỗ thị sợ hãi đến mức mồ hôi vô thức đổ dài trên trán, hai chân bà run run, tay phải bám vào cánh tay Sùng Hiền hầu mới có thể đứng vững.

Lý Càn Đức nắm chặt tay mình, giấu kín trong ống tay áo, chỉ có Thần Anh phu nhân đứng cạnh ông mới có thể nhận ra. Thái hậu cố tính lấn lướt đức vua, chuyện này đâu phải chỉ một hai ngày. Trước đây bệ hạ chưa từng trái lệnh, thì lần này cũng sẽ như thế mà làm. Thần Anh khẽ nói nhỏ vào tai Càn Đức một câu, Càn Đức buông nắm tay mình, cất giọng bảo.

“Sùng Hiền hầu, sao khanh còn chưa mời mọi người vào bàn dự tiệc?”

Lý Càn Tín và Đỗ thị như được giải vây. Đỗ thị xin nhận lại con để cho ti sữa còn Càn Tín thì vui vẻ mời khách ngồi vào bàn tiệc. Tiếng đũa chạm vào bát, tiếng chung rượu chạm vào nhau và tiếng xôn xao chúc tụng đứa bé hòa lẫn vào nhau khiến không gian chẳng mấy chốc náo nhiệt trở lại. Giữa cuộc vui, thái sư Trần Độ quay sang hỏi Càn Tín.

“Hầu gia, chẳng hay đã chọn được quý danh cho công tử chưa?”

Suýt chốc Lý Càn Tín quên mất việc này, vừa nghe Trần Độ hỏi, ông lại chắp tay trước trán, quay về phía Càn Đức, trịnh trọng tâu.

“Bẩm bệ hạ, thần đã nghĩ cả ngàn cái tên nhưng vẫn chưa biết nên đặt cho con trẻ tên nào. Nhân dịp có bệ hạ ở đây, khẩn xin bệ hạ ban cho cháu một cái tên, để sau này con trẻ theo chí hướng ấy mà nên người.”

Lý Càn Đức đặt chung rượu xuống, cau mày suy nghĩ thoáng chốc rồi hào sảng nói.

“Hôm ấy trẫm nhớ trời mưa không ngớt, ấy thế mà khi vừa có tin đứa bé này được sinh ra, mưa liền tạnh, mặt trời lại lên. Trẫm thấy cái tên Dương Hoán lại hợp lí với con.”

Lễ bộ thị lang Lê Bá Ngọc vừa nghe cái tên ấy, đã xin phép tiếp lời.

“Bẩm bệ hạ, thần ngu muội xin đoán, Dương là mặt trời, Hoán là ánh sáng. Dương Hoán là ánh sáng mặt trời. Sau này công tử lớn lên, ắt hẳn sẽ là một người thông minh sáng suốt, sống ngay thẳng cương trực. Nếu thần có sai xin được bệ hạ chỉ dạy thêm.”

Lý Càn Đức bật cười, hàm râu dưới cằm vì thế mà run lên.

“Bá Ngọc, khanh quả là tinh ý.”

Lý Càn Tín lẩm nhẩm cái tên Lý Dương Hoán vài lần, rồi mãn nguyện khấu đầu.

“Thần xin cảm tạ bệ hạ!”

Tiếng nói cười râm rang tiếp diễn. Ả hầu chạy vào phòng, nơi Đỗ thị đang cho con ti sữa bẩm báo lại mọi việc. Đỗ thị nghe xong, chẳng thấy vẻ mặt có chút hồ hởi nào. Bà nhìn con thở dài ngao ngán.

“Tội cho con của mẹ.”

Lại thêm nửa canh giờ, một ả hầu khác lại chạy vào bẩm báo. Lúc này Dương Hoán đã no bụng, đôi má chàm sữa phúng phính dưới hai hàng mi khép chặt, ngây thơ ngủ say.

“Thưa bà, thái hậu có lệnh, khi cậu cai sữa, sẽ được đón vào cung.”

Đỗ thị vốn biết việc này từ trước nhưng không khỏi thấy xót xa. Rõ ràng là đứa con mình mang nặng đẻ đau nhưng ở bên cạnh mình không bao lâu lại sẽ trở thành con người khác. Sau này, con trẻ vào cung, nếu thuận lợi lên ngôi thái tử, thì giữa bà và con không còn là tình mẫu tử nữa, lúc đó chỉ còn lại nghĩa quân thần. Đỗ thị khẽ nắm bàn tay bé xíu của con, hỏi ả hầu còn đứng đó.

“Thái hậu có nói sẽ giao cho phu nhân nào của bệ hạ nuôi dưỡng không?”

“Thưa bà, thái hậu bảo mẹ nuôi của cậu sẽ là Thần Anh phu nhân.”

“Sao?”

Đỗ thị xém tí nữa là đã thét lên nhưng bà cố gắng định thần lại, đưa tay lên vuốt ngực. Oan gia đúng thật là oan gia, bệ hạ có mười mấy vị phu nhân, sao nhất định phải do Thần Anh nuôi dưỡng. Thái hậu rõ ràng biết Đỗ thị trước nay không thuận thảo với Thần Anh, giờ lại giao con của bà cho bà ta, khác nào đang trêu ngươi bà. Đỗ thị dùng khăn chặm nước mắt đang tuông ra, thầm kêu lên.

“Giá mà ông cậu vẫn còn sống, thái hậu chắc chắc không đối xử với ta như thế.”

Đỗ thị sinh con đầu khi tuổi đã ngoài ba mươi, lại vì đau lòng khi nghĩ đến việc sắp xa con trẻ nên đến tháng thứ ba bà đã không còn đủ sữa cho Dương Hoán. Mặc dù phủ Sùng vẫn có chuẩn bị hai bà vú nuôi, nhưng Linh Nhân thái hậu biết tin, quyết định đem Dương Hoán vào cung khi đứa trẻ vừa tròn sáu tháng.

Linh Nhân giao Dương Hoán cho Thần Anh phu nhân, cẩn thận dặn dò.

“Trong số phi tần của vua, ta xem con hiền đức nhất nhưng lại không có phúc phần sinh nở. Nay ta giao hoàng tử lại cho con, con cũng nên hết lòng hết dạ chăm sóc cho hoàng tử. Đây là đứa trẻ có phúc, sau này con cũng sẽ vì thế mà được nương nhờ.”

Mệnh lệnh của thái hậu chẳng khác nào tảng đá đè nặng lên vai Thần Anh. Năm xưa, thái hậu là mẹ ruột của bệ hạ nhưng lại không phải hoàng hậu. Hoàng hậu khi ấy là Dương hoàng hậu, bảo ban thái hậu từ ngày bà nhập cung, vốn chỉ là một phu nhân bé nhỏ. Rồi khi thái hậu sinh bệ hạ, cũng là Dương hoàng hậu chăm sóc người. Sau này tiên đế mất đi, thái hậu lộng quyền, tìm cớ giết Dương thái hậu và thủ tiêu tất cả hậu duệ nhà họ Dương. Giả như mai đây, đứa trẻ này lên ngôi hoàng đế, liệu với mâu thuẫn của bà và Đỗ thị, Đỗ thị có cam tâm tình nguyện để cho bà được yên. Thần Anh suy nghĩ mãi, vị Linh Nhân thái hậu bụng đầy toan tính ấy, là muốn bà sống hay đang muốn bức tử bà?

Nhưng có nói thế nào Dương Hoán vẫn chỉ là một đứa bé còn nằm trong nôi, dù Thần Anh không thích Đỗ thị, nhưng với đứa trẻ này lại có chút xót thương. Trẻ con vô tội, những tưởng đầu thai vào nhà vương hầu thì sẽ có cuộc sống sung sướng như con trai của các vương hầu khác. Vậy mà đứa trẻ này, chẳng hiểu sao lại phải vào cung, mai này còn phải gánh trên vai trách nhiệm giang sơn.

Cung nữ thân cận của Thần Anh thấy Dương Hoán ngủ say, không khỏi cảm thán.

“Ngài ấy quả thật là có phúc, dù không được sinh ra trong hoàng cung, nhưng lại mang chân mệnh thiên tử.”

Lý Dương Hoán – Thần Anh phì cười. Suy cho cùng, trong lòng bệ hạ vẫn chỉ có Lan Anh hoàng hậu và cháu ruột của bà – hoàng tử Lý Dương Côn. Năm đó em gái của Lan Anh hoàng hậu gả cho Thành Quảng hầu, con trai sinh ra mang họ của cha và mẹ. Hoán đâu phải chỉ là ánh sáng, Hoán còn có nghĩa là thay thế. Lúc vừa nghe vua đặt tên cho đứa bé, Thần Anh đã tinh ý nhận ra rằng, đứa bé này, đối với đức vua, chỉ là một sự thay thế cho hoàng tử Lý Dương Côn. Sau này, nếu như lớn lên, biết được sự thật, thử hỏi con trẻ sẽ chấp nhận thế nào đây?

“Lý Dương Hoán ơi Lý Dương Hoán, chuyện tương lai ta và con đều mù mịt như nhau. Nhưng cơ duyên đã đưa con đến bên ta, ta sẽ dùng hết tình thương này để chăm lo cho con. Không mong con sau này quá đỗi xuất chúng, chỉ hy vọng con lớn lên bình yên, vui vẻ. Mẹ con chúng ta cùng nhau cố gắng, con nhé!”

Lý Dương Hoán – đứa trẻ mang chân mệnh thiên tử!
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Bên trên