Truyện ngắn [Cổ đại- Huyền huyễn] Duyên phận này quá bi thương.

táo đỏ mini

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
29/5/16
Bài viết
81
Gạo
0,0
Duyên Phận Này Quá Bi Thương
Tác giả: Táo đỏ mini
Thể loại: Ngôn tình, cổ đại, huyền huyễn.
Tình trạng: Hoàn, gồm 3 phần nhỏ.
*Lâu lắm mới trở lại viết một truyện ngắn mong cả nhà ủng hộ.
Phần 1: DUYÊN PHẬN
Năm ấy, làng Đông Hạ có hai tú tài lên kinh ứng thí. Bùi Sinh cũng là một trong hai tú tài nọ. Chàng đa tài, thông hiểu lễ nghĩa đã thế tướng mạo nghiêm trang nên các cụ Nghè, ông Tổng đều nhẩm chắc chàng sẽ đậu bảng vàng.

Đời người ấy mà, trăm ngàn vận số, làm sao chỉ dựa vào một cái nhìn chủ quan có thể dò xét được thiên cơ. “Người tài thì đời ghen còn hồng nhan thì bị ghét”, câu này có chút phũ phàng nhưng sự thật rất ứng nghiệm.


Ngày đò ngang qua bến Thương, trời đất đang trong xanh bỗng từ phía Bắc nổi lên sấm chớp, loáng cái gió lộng làm mặt nước chông chênh rồi chuyển màu đùng đục. Bùi Sinh ngồi ở đầu thuyền bên này nhận thấy sắp có giông to đương quay đầu bảo ông đò chuyển hướng thì nghe được tiếng gọi bên gò đất trống.


Chiếc thuyền nhỏ xuôi theo dòng nước đáp bên bờ cỏ nổi, chàng thư sinh vươn ngón tay thon dài về phía trước, trên miệng bất giác nở nụ cười nói với vị cô nương xinh đẹp trước mặt: “Trời ắt đổ mưa lớn. Hai cô mình không chê thì lên thuyền nhỏ này ta tiễn hai nàng một đoạn.”

Thiếu nữ tuổi đương thì giống như búp hoa chờ mưa xuân, dáng vẻ e ấp, vừa dịu dàng vừa xa cách. Có lớp bảo vệ là vậy song chỉ cần tại đúng thời điểm, đúng người tác động sớm muộn gì cũng sẽ khai hoa. Huống hồ lòng con người không hề bằng phẳng gặp nhau đây rồi đã vội khẳng định chính là duyên.


Cô hầu gái nhanh miệng kể lể với Bùi Sinh: “Cô em là Thu Ngọc tiểu thư, con gái của Hà phú hộ ở huyện Quảng Văn. Lần này, cô em đi chùa lễ phật lúc về lại trễ mất chuyến đò. Cũng may gặp công tử đây. Chẳng hay quý tánh, gia cảnh nhà công tử thế nào?”

Thu Ngọc đang ngồi im thin thít nghe thấy vậy hai má nóng hừng véo vào hông Đậu một cái kịp thời chỉnh sửa: “Chẳng hay quý tánh công tử là gì? Nếu có dịp Thu Ngọc nhất định báo đáp.”


Bùi Sinh nghe âm thanh trong trẻo nọ mà cả người như say, đơ một chốc mới ngại ngần đáp: “Tôi là Bùi Sinh, đến từ làng Đông Hạ cách đây một ngày đường. Ngang qua chốn này vô tình gặp nàng thực sự không cần báo đáp gì?”

Thấy tiểu thư cứ bịn rịn nhỏ Đậu lập tức xen vào: “Sao lại là vô tình là duyên trời sắp đặt đó công tử?”

“Đậu”, Thu Ngọc nhìn nó chăm chăm.

Lúc này bên ngoài thuyền vọng vào tiếng cười của ông đò: “Ha ha, đúng là có duyên có nợ mới gặp nhau. Hôm nay chúng ta cũng có duyên có nợ nên buộc phải đến bến Đợi này dừng chân thôi!”


Đêm ấy mưa gió bão bùng, bốn con người quây quần bên đống củi lửa kể chuyện mình, chuyện đời. Nghe người ta đồn con gái huyện Quảng ai ai hát cũng hay như hoạ mi. Bùi Sinh tò mò đem thắc mắc này nói ra liền được nàng đáp trả bằng một bài trao duyên hết sức tế nhị.

“Đường về xóm râm ran tiếng hát. Bến Giang Đình bát ngát nương dâu. Ngư Ông thả lưới buông sào. Con thuyền chàng ở nơi nào đợi em…”**

Cái tình ấy nảy sinh nhanh chóng nhưng không vồ vập, xô bồ mà còn rất cảm, rất thuần khiết. Chàng cứ thế tự nhiên cởi mở nói về chí hướng, về giấc mộng của mình, còn nàng vừa nướng khoai thi thoảng lại ngẩng đầu nhìn nam nhân bằng đôi mắt sáng rực. Ai không biết còn tưởng cả hai đã quen nhau từ lâu lắm.

Bùi Sinh ở lại huyện Quảng thêm ba ngày, đương nhiên chàng muốn đến thăm Thu Ngọc nhưng một phần vì sợ tai tiếng không hay cho nàng một phần vì bản thân chưa thành công trạng nên suốt ngày cứ bần thần đi ra rồi đi vào. Nỗi nhớ trong lòng khôn nguôi, bao nhiêu cảm thán đều đem viết hết thành thơ. Sáng hôm từ biệt, Thu Ngọc lẻn đến gặp chàng nhìn thấy nam nhân ấy ngủ gục trên bàn khắp mặt đất rải rác những bài thơ, người vô tâm còn rung động huống hồ là kẽ hữu tình, hữu ý. Bùi Sinh rụt rè đem toàn bộ sự chân thành trao cho nàng, Thu Ngọc nâng niu như bảo vật rồi đem chiếc khăn tay chuẩn bị từ trước buộc lên cổ tay chàng. Giọng nàng khi ấy chứa bao vị ngọt, bao nỗ lực chàng đều cảm nhận được: “Ở huyện Quảng em có tục, người thương đi xa nhất định phải đem khăn buộc lên cổ tay người đó. Nhắc chàng ấy rằng, sớm ngày trở về.”

Dẫu cả hai chẳng hứa hẹn với nhau điều xa xôi gì, nhưng chỉ cần nhìn ánh mắt lưu luyến ấy đã có thể tỏ tường.

Phần 2: TÌNH HÃY CÒN BAO NHIÊU.
Kì thi đình, Bùi Sinh bị đánh trượt, giấc mộng thiếu thời của chàng cũng vì vậy mà tan biến. Nhưng không rõ nhờ phúc đức gì mà Hà phú hộ lại vô cùng vừa ý chàng, chưa đầy ba tháng đã đồng ý gả Thu Ngọc về Bùi gia.
Tân nương mặc áo lụa đỏ lộng lẫy ngồi trên võng đi qua mấy cánh đồng lúa đương vàng, mái tóc nàng phiêu bồng trong gió quấn quýt lấy lòng dạ nam nhân trên yên ngựa. Nàng nhìn bóng lưng của chàng, tự cảm bản thân quá may mắn đã có được nam nhân tốt nhất trên đời này.
Nàng khẽ gọi: “Tướng công.”
Chàng quay đầu lại, vẫn nụ cười ngày nào nhưng nàng chợt giật mình, ánh mắt của chàng thật lạ.
Những ngày đầu bên nhau không hề đẹp đẽ như người ta vẫn mộng. Thu Ngọc từ tiểu thư cành vàng lá ngọc đã biết tự học cách chăm lo cho gia đình, nuôi tằm dệt vải. Bùi Sinh cũng chẳng có ngày nào không tất bật, sáng dạy học ở làng trên, đêm thắp đèn ôn luyện. Tuy hai vợ chồng thời gian này có chút cơ cực nhưng vô cùng mãn nguyện. Trăng buông xuống, Bùi Sinh gối đầu lên đùi nàng, nắm lấy đôi tay của nàng hỏi: “Lấy ta có phải cực lắm hay không? Phu quân của nàng bây giờ chẳng có gì trong tay cả.”

Thu Ngọc day day nếp nhăn trên trán chàng cười dịu dàng: “Chàng có thiếp đấy thôi. Thiếp cũng có chàng.”
Một năm lại trôi qua trong buồn bã khi Bùi Sinh lần nữa bị đánh trượt. Chàng ngồi ở ven đê rất lâu, trong lòng ngập tràn tủi hổ, có gì đó cay cay nơi đáy mắt, có điều gì đó ngày một đè nặng trong lòng.

Hai người bên nhau quan trọng nhất là thấu hiểu, Thu Ngọc biết chàng nhiều tâm sự biết bên ngoài có vài lời đồn đại không hay nên mọi hành vi cử chỉ đều nhất mực cẩn thận. Nàng nghĩ trời đất này dẫu có không công bằng với chàng thì đã sao, bắt chàng chịu khổ thì đã sao? Có nàng ở đây liền cho chàng sự công bằng, cùng chàng chịu khổ như thế đã đủ hay chưa. Thu Ngọc khi ấy cứng rắn lắm, cả ngây thơ nhưng mãi sau nàng cũng hiểu lòng tự tôn của nam nhân rất cao, dẫu nàng cho họ bao nhiêu cũng không đủ bù đắp được.

Nửa năm sau, Bùi Sinh quyết định thôi học chuyển sang buôn bán. Con đường tài vận của chàng hanh thông đến lạ, chẳng mấy chốc mà tạo dựng nên một cơ ngơi to lớn, khiến người đương thời ai ai cũng trầm trồ.

Chàng lúc này hay ra khỏi nhà nhiều hơn, học uống rượu, học nói chuyện phóng khoáng, có khi tận hai, ba ngày cũng chưa có về nhà. Thu Ngọc cũng đã đổi khác, cả ngày chẳng buồn nói gì, nói một chút liền nhăn nhó, trước đây mỗi khi chiều buông người ta thường thấy một cô gái ngồi bên khung cửi vừa dệt vừa hát dân ca đợi chồng đi làm về, tiếng hát của nàng say lắm, nghe rồi liền chẳng ai muốn đi, ấy vậy rồi từ lúc nào nàng cất khung cửi đi, người ta không thấy nàng cũng không được nghe tiếng hát nữa.
“Bùi Sinh, chúng ta cần nói chuyện”, nàng đứng trước phòng đọc sách, hai mắt sâu thăm thẳm.
Bùi Sinh tránh né ánh mắt của nàng, giả bộ bận bịu: “Giờ ta phải ra ngoài rồi! Có gì để sau nói được không?”
Chàng bước vội qua, nàng không giữ được, bàn tay trỗng rỗng giữa không trung dần dần hạ xuống. Bàn tay còn lại cầm chiếc áo dính đầy phấn thơm nữ nhân buông nhẹ xuống đất.
Nước mắt nàng lăn dài trên gò má, nàng hồi tưởng lại cái ngày họ ở bên nhau, chịu không được sự dày vò mà khuỵ xuống đất, nghẹn ngào trong cổ họng: “Chàng đã hứa với ta cả đời này chỉ có mình Thu Ngọc. Chàng quên rồi sao?”

Phần 3: TANG THƯƠNG THẾ NÀO MỚI TỎ LÒNG NHAU.

Đã từ rất lâu rồi Thu Ngọc không được ngủ ngon giấc, sau lần Bùi Sinh bị bắt oan rồi nàng sảy thai cũng hai năm nữa lại trôi qua.
Cách nàng nhìn cuộc sống khi này rất hững hờ, cũng đầy bi quan, động một chút liền nổi giận đập bát, đập chén. Nếu nghe thấy có lời đồn đại về tiểu tam, tiểu tứ nào chẳng cần biết thực hư đúng sai lập tức sai người đến dằn mặt. Thu Ngọc trước đây yêu Bùi Sinh dịu dàng bao nhiêu, rộng lượng bao nhiêu thì hôm nay nàng muốn chiếm đoạt, muốn trói buộc chàng bấy nhiêu. Căn nhà bây giờ cũng chẳng thể gọi là nhà nữa, nó là một chiếc lồng đầy gai nhọn, đến một tia nắng cũng chẳng thể lọt vào.

Bùi Sinh hơi say, chàng về nhà nói dăm câu với người hầu rồi tính đi ngay, nhưng nhìn thấy nàng liền giả như mất hết ý thức đòi về phòng đọc sách đi ngủ.
Nàng ngồi ở trên ghế, nét mặt tĩnh mịch, lạnh lẽo nói: “Chàng giả vờ đến bao giờ nữa. Ta sai người đến chỗ con hồ ly tinh đấy rồi. Sau này xem ả còn dám tiếp chàng nữa không?”

Bùi Sinh đập mạnh tay xuống bàn, hai mắt chàng ngập tràn lửa giận: “Nàng rốt cuộc là muốn gì hả? Nàng muốn động vào ai cũng được, muốn phá phách sao cũng được nhưng nữ nhân đó thì ta cấm.”

Bàn tay giấu dưới ống áo dài bất giác run lên, nàng vo tròn lại hình nắm đấm, dùng ánh mắt quật cường đáp trả: “Ta là vợ chính thất của chàng, là vợ có cưới hỏi đàng hoàng. Vậy mà chàng bảo ta không có quyền dạy dỗ kẻ cướp chồng mình sao. Bùi Sinh chàng không thấy mình vô lương tâm ư.”
Bùi Sinh nhìn ra ngoài, mưa bắt đầu rơi, gió lạnh thổi qua ô cửa từng tiếng kẻo kẹt, giọng chàng khi ấy tuy nhỏ mà mạch lạc, rõ ràng: “Nàng ấy có thai rồi. Ta định sẽ rước nàng ấy về. Không cầu kì lễ lạc chỉ cần thắp hương trước gia tiên nhận thân là được.”

Có tiếng chớp động ngoài hiên, có cả tiếng mưa nữa, trước đây nếu nàng sợ hãi người đó sẽ ôm nàng vào lòng, kể cho nàng nghe vài câu chuyện, hôn lên mắt nàng rồi nói: “Yên tâm! Tướng công nàng ở đây”.
Thì ra đó là chuyện đã rất lâu, thành quá khứ mất rồi!
“Đậu, Đậu ơi!”, nàng hầu nhỏ giờ đã già thêm mấy tuổi, cô chạy lại ngấn nước còn đọng trên khoé mắt.
“Phu nhân, người muốn đi đâu sao?”, nhỏ hỏi.
Nàng đứng không vững, vịn tay vào nhỏ: “Đi, chúng ta đi tìm ông.”
Mưa trút lên người nàng ướt sủng, tóc mai bết lại dính chắc bên má rồi xuống cổ, nàng đứng bên ngoài ngôi nhà gỗ sơ sài, nhìn lên vách tường chỉ thấy bóng của hai người họ. Bóng của nam nhân ôm lấy bụng nữ nhân nọ, áp đầu lên bụng nàng ta vui vẻ đùa bỡn nói: “Bảo bối nhỏ! Mau ra đây với bố nào, ngoan không được đạp mẹ con.”

Hai người bọn họ gặp nhau ở bến Thương, yêu nhau ở bến Đợi tiếc rằng tình cảm này lại bị sóng nước cuộc đời đánh chìm ở bến bờ vô định. Ái tình vốn không sai, nếu sai ấy là lỗi của chính mình.

Thu Ngọc chẳng buồn thay quần áo, nàng cứ để cả người ướt sủng như vậy bước vào gian phòng nhỏ đã niêm phong từ lâu.

Bên trong căn phòng có một chiếc thôi nôi nhỏ, mấy chiếc trống bỏi đủ màu sắc, quần áo trẻ sơ sinh được xếp ngăn nắp, tinh tươm.
Nàng ngồi xuống bên cạnh chiếc nôi, ngục đầu tựa vào thành gỗ rồi bật khóc. Tiếng khóc thê lương, nghẹn ngào còn kèm theo uất ức, oan khuất.
Nàng thì thào với hình nộm vải: “Mẹ xin lỗi con. Mẹ là người mẹ tồi. Mẹ đã không cho con cơ hội nhìn thấy cuộc sống này. Con oán mẹ không? Con hận mẹ không?”
Sấm đánh đùng đoàng liên hồi, nàng hoảng sợ ôm lấy búp bê vải chui vào góc tường ngồi co ro, nàng thì thầm với búp bê: “Đừng sợ. Mẹ ở đây rồi! Mẹ con mình trốn ở đây đợi bố con về nhé. Bố con rất giỏi, chàng ấy không sợ sấm, chàng ấy sẽ bảo vệ hai mẹ con mình. Đừng sợ! Đừng sợ!”
Sau đêm ấy, Thu Ngọc bị điên. Nàng cứ ôm búp bê vải đi lang thang khắp trong ngoài nhà. Luôn miệng đòi dắt con mình đi chơi còn đặt tên cho nó là Bùi Tâm.
Thấy chàng tiến lại, nàng ngây ngốc vẫy tay cười, nụ cười đẹp rực rỡ như ngày đầu họ gặp nhau.
Bùi Sinh ôm chặt lấy nàng vào lòng, chàng khóc, tự trách lẫn oán giận: “Ngọc ta sai rồi! Nàng tỉnh lại đi được không? Nàng tỉnh rồi ta cái gì cũng nghe theo nàng. Nàng đánh ta, chửi ta thế nào cũng được, ta đều nhận hết.”

Nàng đưa đôi tay gầy nhỏ ôm lấy má chàng, cười ngốc: “Đừng khóc, đừng khóc. Chàng làm con tỉnh mất, con tỉnh rồi sẽ khó ngủ lại lắm.”

Nghe thấy lời nàng nói, Bùi Sinh lại khóc to hơn, người con gái của chàng, sinh mệnh của chàng, tình yêu mà chàng đã dùng cả vận mệnh để đánh đổi cuối cùng lại một tay mình phá huỷ.
Đêm đến chàng ôm Thu Ngọc vào lòng, hôn lên trán nàng, thủ thỉ bên tai nàng một vài câu chuyện. Chàng biết nàng bây giờ không hiểu gì, nhưng nàng của hiện tại rất vui vẻ, có lẽ đây là ý trời.
Nhiều năm như vậy rồi chàng luôn dấu một bí mật.
Năm xưa, sau ngày thi đình trở về qua miếu cũ, chàng liền rẽ vào đó tá túc. Đêm đến chàng mơ thấy một giấc mộng, trong mộng chàng thi rớt khoa bảng, gia đình nàng không ưng liền đem nàng gả vào hào môn. Thế rồi trong ngày cưới nàng trốn đi tìm chàng, cả hai chạy chưa được bao xa thì bị bắt lại, nàng dùng thân đỡ cho chàng một dao. Khi ấy chàng cảm thấy máu nàng ướt đẫm trên vai, trên người mình, nàng ngã xuống, khoé miệng thì thào nói yêu chàng, yêu chàng rất nhiều. Sau giấc mộng ấy chàng gặp một Tăng nhân ông hỏi chàng có muốn đổi mệnh hay không? Ông ta nói sau khi nàng chết, năm sau thi đình chàng sẽ đổ quan Trạng, một thời gian sau sẽ làm đến chức Thượng Thư, con đường công danh hào quang muôn trượng. Nhưng nếu muốn cứu nàng thì hãy đổi công danh, sự nghiệp cho ông ta. Chàng rất hoang mang, định đi rồi chùn chân quay lại, chàng nói với tăng nhân: “Chỉ cần ở bên cạnh nàng ấy. Bất kể giá nào đều không quan trọng.”

Bùi Sinh dạo này đều tự mình xuống bếp, chàng nấu ăn, nàng ngồi nhặt rau. Thi thoảng nàng ôm búp bê vải nựng nựng nói: “Con nhìn xem, bố con khéo tay chưa. Làm mẹ con không chịu được nữa rồi!”
Bùi Sinh vẫy nàng lại, hôn lên trán nàng, cười cười, hùa theo nàng nói: “Con xem mẹ con thật tham ăn.”
Nàng chu miệng lên, hai mặt gườm gườm: “Ai bảo chàng nấu ngon như vậy làm gì? Tất cả là do chàng.”
Bùi Sinh chợt nhói trong lòng, chàng bất thình lình thả muỗng xuống, ôm lấy nàng từ sau lưng: “Là do ta cả. Nên xin nàng để cho ta chuộc lỗi, có được không?”
Thu Ngọc quay lại tựa vào lòng chàng, thủ thỉ: “Thiếp không cần chàng chuộc lỗi gì hết. Thiếp chỉ cần chàng và con luôn ở bên cạnh là đủ.”
Đoạn dây tình đã đứt này muốn nối lại có dễ dàng, nàng như bây giờ là tốt hay xấu. Chàng tìm lại được Thu Ngọc của mình trước đây, tìm lại được bản thân nhưng mọi thứ lại quá đổi mong manh, chàng sợ sẽ bị vỡ mộng, sẽ một lần nữa tan biến.

Gần đây có quá nhiều áp lực, chàng vừa phải chăm lo cho Thu Ngọc vừa phải lo chuyện làm ăn nên đầu óc lúc nào cũng căng như dây đàn.

“Bùi Sinh.”, Thu Ngọc chậm chững bước đến ngồi lên ghế trúc, co chân ôm búp bê trong lòng.

Chàng hỏi: “Sao nàng còn chưa ngủ?”

Nàng khẽ vùi đầu xuống: “Con đòi gặp chàng.”

Bùi Sinh tiến lại luồn tay vào tóc nàng, xoa đầu nàng cười: “Con muốn gặp ta, hay nàng muốn gặp ta.”


Nàng hơi ngước lên mắt long lanh, vô tư đáp: “Cả hai.”

Bỗng từ bên ngoài có tiếng kẻ hầu hốt hoảng: “Ông chủ, ông chủ. Cô Vân, cô Vân hình như chuyển dạ, sắp sinh đó. Ông qua xem sao?”

Bùi Sinh giật mình đứng dậy. Chàng vội vội vàng vàng rời đi, trước lúc đi khẽ vỗ về Thu Ngọc nói: “Ta đi nhanh thôi sẽ về. Nàng ngủ trước đi.”

Thu Ngọc giữ lấy tay chàng, giọng có chút cầu khẩn: “Đừng đi. Không có chàng thiếp không ngủ được.”

Bùi Sinh gỡ tay nàng ra, khó khăn: “Ta sẽ bù đắp cho nàng sau, ngoan.”

Chàng có cảm giác nàng nói gì đó, nhưng vì vội vã nên đã không kịp nghe rõ ràng.

Đêm ấy có một vài bí mật kinh hoàng đã bị lật tẩy. Một vài chuyện khủng khiếp đã xảy ra. Và người con gái ấy đã mãi mãi rời xa nhân thế bi ai này.

Sáng hôm sau, người hầu phát hiện chiếc giày của Thu Ngọc trôi lềnh bềnh trong ao sen. Khi người ta vớt được xác nàng lên, trong lòng nàng vẫn ôm con búp bê vải, gương mặt nàng trắng bệnh, mắt nhắm nghiền như ngủ, có lẽ nàng quá mệt rồi.Lại sắp có thêm một kẻ điên nữa. Chàng ôm lấy thân xác của nàng trong lòng, oán hận cùng đau đớn.

Chàng gào lên với mọi người: “Các người mau cút đi, để Thu Ngọc của ta ngủ. Nàng ấy đang dỗi ta thôi, lát nữa sẽ tỉnh lại, tỉnh lại ngay mà.”

Bùi Sinh đặt xác nàng vào quan tài bằng gỗ, tự mình kéo đến ngôi miếu hoang năm nào bên bến sông Đợi. Gió thổi âm u, tĩnh mịch vô cùng, chàng quỳ xuống dập đầu trước Đức Phật cầu xin người trả Thu Ngọc lại cho chàng, dùng sinh mạng của mình trao đổi cũng nguyện ý.

Trong ngôi chùa cổ, bỗng vang lên tiếng cười ngặt nghẽo, giống như hồn ma, giống như quỷ dữ từ địa ngục.

Tiếng vọng vang lên bốn phía: “Bùi Sinh, kết quả ngày hôm nay là do ngươi tự làm ra. Nửa đời của ngươi vướng mắc trong lòng, ngươi cho rằng một chút công danh, sự nghiệp đó của ngươi là món nợ mà nàng nợ ngươi. Ngươi sống với với nàng mà luôn không thoả mãn, ngươi dần trở nên ghét nàng, ngươi cảm thấy là do nàng hại ngươi. Sao ngươi không thành thật với bản thân mình đi, rằng ngươi đã từng oán hận người con gái mình yêu như vậy.”

Bùi Sinh đập đầu xuống nền đá, máu chảy thành dòng: “Ta thừa nhận, ta là kẻ tồi tệ, là phu quân hai lòng, là kẻ đáng khinh nhất trần gian này. Cái gì ta cũng nhận, chỉ cần trả lại nàng cho ta, bất kể điều gì, bất kể hình phạt nào ta đều bằng lòng. Cầu xin ngài, ta cầu xin ngài.”

“Ngươi không có tư cách nữa rồi!”, tiếng cười rùng rợn lại vang lên.

Từ trên cao một cuốn sổ tre rơi xuống, trên những tấm thẻ tre còn có bút tích của nàng.

Có ghi: “Ngày 2/3 lấy giọng hát của ta đổi cho phu quân sự nghiệp rạng rỡ. Ngày 5/7, lấy sự ân cần tinh tế của ta đổi cho phu quân giao thương bình an trở về, ngày mùng 3/2 nguyện trao sinh mạng cốt nhục của ta, cùng sự dày vò thống khổ mãi mãi cho đến khi ta chết đổi lấy tính mạng phu quân trong ngục, mùng 6/9 lấy bản thân ta đổi cùng chàng một chặng đường ân nghĩa xưa cũ.”

“A…a…Không phải, không phải! Sao lại thế này? Thu Ngọc…Thu Ngọc của ta.”


Ái tình là gì vậy?


Nước mắt của ái tình có vị gì vậy?


Đau lắm phải không?


Bùi Sinh chôn nàng bên bến sông Thương, nơi hai người lần đầu tiên gặp gỡ.

Người ta thấy bất kể đêm ngày đều có bóng dáng nam nhân nọ ngồi bên mộ rất lâu, thủ thỉ rất nhiều câu chuyện.

Bùi Sinh ốm nặng, nhưng chàng không chết, chàng cứ sống vất vưỡng như vậy cho đến một ngày nọ gặp lại ả đào năm nào lừa gạt mình có thai.

Ả ôm đứa con gần như sắp chết cầu xin chàng cứu giúp, chàng khi ấy rất muốn nỗi sát tâm nhưng rồi lại buông xuống. Thu Ngọc của chàng nhất định không vui đâu, nàng ấy chỉ yêu một Bùi Sinh dịu dàng, chân thành thôi.

Chàng ôm đứa trẻ trong lòng, một sinh mệnh mong manh yếu đuối, chàng nói với nó: “Từ nay, con tên là Bùi Tâm. Mẹ của con tên là Thu Ngọc.”

Đứa trẻ tự nhiên khỏi bệnh, năm năm sau chàng vì bệnh mà qua đời. Bùi Tâm lớn lên là một công tử gia giáo, có tài có đức, chàng lúc nào cũng nhớ tới hình ảnh của bố trước lúc mất, ông khi ấy cười mãn nguyện: “Cuối cùng ta cũng sắp gặp mẹ của con rồi! Không biết bà ấy có chịu tha thứ cho ta không nữa. Nếu…nếu…”

Bùi Tâm nắm lấy tay bố, an ủi ông: “Nhất định mẹ sẽ chờ bố mà.”

Nước mắt tuôn rơi: “Không sao cả? Ta đi tìm bà ấy, đi tìm Thu Ngọc của ta. Bao lâu cũng được, bao lâu cũng được…”

Nơi bến Thương sóng nước hiền hoà, cỏ bến Thương tươi xanh khác lạ, bên gò đất cao nọ có hai nấm mồ nằm bên nhau san sát.

Thi thoảng ông lái đò đi ngang qua đều nói với khách trên thuyền vài lời ẩn ý, vu vơ: “Gặp nhau ở bến Thương là duyên. Yêu nhau ở bến Đợi là phận. Có duyên có phận ắt có nợ. Gặp quỷ gặp thần ắt là nghiệt duyên.”
 
Bên trên