Đó là khi tôi đang vắt vẻo ngồi trên cành nhãn nhà bác Năm, còn nhỏ thì dựa mình ngồi dưới gốc cây, tay mân mê móc lấy sợi cỏ làm thành chiếc nhẫn như chị Hằng đã từng chỉ dạy. Trời mùa hạ nắng gắt, bỗng từ đâu tới một cơn gió Lào nhè nhẹ, nóng bức. Chợt nhiên, tôi thấy lòng mơn man như đang hít phải thứ hương hoài niệm nào đó – hương cỏ theo gió, lướt lên trên những đường vân gỗ trài dài trên thân cây, xông thẳng vào cánh mũi tôi mùi hoài niệm. Một bàn tay, một nếp áo, một nhánh tóc đen, một chiếc vòng cỏ nhỏ,... Chị ùa về trong tôi theo làn gió lay lay những sợi cỏ dưới chân giày của nhỏ, một mùi cỏ lạ lẫm, một thoáng hương mờ ảo,... Không biết giờ chị ra sao rồi...
* * *
Chị Hằng là chị hai của nhỏ, đi lấy chồng từ độ năm kia. Chị hiền lắm, chị chẳng nạt ai bao giờ, không giống như con em bướng bỉnh, ương ngạnh kia. Thấy đứa nhóc lạ đứng ngoài xóm tèm lem nước mũi, chị nhẹ nhàng hỏi nó con ai, rồi rút khăn tay từ trong túi quần ra lau mặt, lau tay chân dơ toàn những bùn của nó. Lần tôi trèo tường sang ăn trộm mấy quả xoài nhà bà Lợi hàng xóm bị bắt được, chị cũng đứng ra xin lỗi giùm tôi, rồi giục tôi về nhà, không kẻo ngoại biết thì gay. Chị còn hứa sẽ dắt tôi đi chợ phiên chơi để mua quà cho ăn, đền bù những trái xoài ăn trộm hôm bữa. Suốt năm năm trời, tôi bám dính lấy chị hơn là con nhỏ em lầm lì, ngang ngược kia: chị dẫn tôi ra đê thả diều mỗi chiều đi làm đồng về sớm, chị đưa tôi ra chợ phiên chơi khi tới ngày họp chợ, chị đan quạt nan, chị làm quạt mo cau, chị kể tôi nghe về cái cây trong vườn nhà đã lớn như thế nào, kể con Miu đã biết bắt chuột, kể cái An (nhỏ em ương bướng) đi học bị thầy la ra sao,... mỗi khi ngồi nhìn chị khuấy bánh đúc phụ bà Thạch (bà nội chị, bạn của ngoại tôi) bán hàng.
Tưởng như mới ngày nào, chị còn dắt tay tôi đi trên con đường trưa nắng chang chang, mải mê nhặt nhạnh hoa dại về để ép vở thì hai năm trước thôi, chị đã lên xe hoa theo chồng. Tôi còn nhớ bóng chị nhỏ bé trên con đường làng đất đỏ năm đó, cát bụi vương trên tóc và bám đầy vào tà áo dài còn mới của chị. Mặt chị trắng hơn do được điểm phấn, môi cũng tươi hơn màu đỏ son, khắp người cũng lộng lẫy hơn với những dây chuyền, vòng đeo mà các bà, các mẹ tặng chị. Thế nhưng, chị của ngày thường và chị của hôm đó, sao mà khác nhau quá. Khi dắt tôi đi chơi, chẳng cần phấn má chị vẫn hây hây đỏ; chẳng cần son, miệng chị vẫn cười rạng rỡ; chẳng cần lễ vu quy, ngày trọng đại của đời người con gái mới tươi tỉnh, vui vẻ,... Chỉ là những trưa nắng, những chiều buông, những cánh hoa ép khô đầy trong tập vở, những câu chuyện phiếm, những tàn khói cay xè mắt của căn bếp củi nhỏ hẹp chị vẫn thường khuấy bánh đúc giùm bà,... Chị sao mà buồn quá... Chị không khóc, mặt vẫn bình thường như bao ngày trong mắt người khác, nhưng chẳng hiểu sao, tôi chỉ thấy chị buồn, thấy mắt chị trong veo một màu nước mắt không dám rỏ,... Lúc đó, tâm trí non nớt của tôi vẫn chưa hiểu được sao chị lại buồn. Đơn giản chỉ là sự thắc mắc day dứt mà đến giờ tôi mới lý giải được. Cái An bình thường cứng rắn, bướng bỉnh là thế nhưng hôm đó, nó là đứa khóc và buồn nhiều nhất. Nhà trai vừa bê tráp vào đến trong sân thì nó giãy nảy lên, nằm lăn ra đất ăn vạ, chặn lối không cho nhà bên đó bước đi:
- Mấy người về đi, nhà tôi không nhận sính lễ. Chị Hằng là của tôi, tôi không cho phép mấy người cướp chị đi. Muốn cướp chị thì bước qua tôi đây này.
Thông gia bên đó sợ quá, chẳng biết làm sao mà dám bước qua nhỏ được. Bác Năm và bác Tâm xấu hổ quá, bảo thế nào nó cũng không chịu đứng dậy, đành gọi hai anh Tí và Tồ đang phụ bếp ra bế vác nó vào trong. Lúc đó, lòng tôi hơi quặn lại. Ngày vui của chị, ba mẹ chị mừng, bà con láng giềng mừng; nhưng tôi buồn, nhỏ An buồn và chị cũng đượm buồn. Đứng nép mình gần cửa buồng chị, tôi biết chị đang ái ngại khi phải nghe thấy em gái mình gào khóc, van xin nhà bên kia đừng cướp chị nó đi. Chị muốn khóc lắm, nhưng giờ thì biết sao được. Tay chị túm chặt lấy tà áo, cố gắng nuốt hết nước mắt vào trong để còn "tươi tỉnh" ra gặp bố mẹ chồng tương lai, ra gặp chồng, ra gặp quan khách hai họ. Tiếng cái An vẫn gào khóc ghê quá, cảm chừng như nó đang xé toạc cả bầu không khí "hạnh phúc" trong ngày vu quy của chị. Tôi chỉ biết thu mình sau cánh cửa bếp, buồn bã nhìn nhỏ đang gào lên gọi tên chị:
- Chị Hằng! Chị Hằng ơi! Đừng bỏ em mà đi chị ơi... Hức hức...
Và thế là chị Hằng về nhà chồng thật rồi. Cái An vẫn khóc, không buồn đứng dậy đi đưa dâu. Còn tôi thì chỉ dám đứng thẫn thờ ngoài cổng nhà bác Năm mà đưa mắt dõi theo chị. Vẫn cái bóng bé nhỏ,... Nhưng mới ngày đó chị nắm tay tôi và cái An, còn bây giờ, chị đang nắm tay chồng mình,.. Chị làm dâu nhà người thực rồi.
Đầu tuần trước ngày cưới, khi tôi mới lếch thếch theo cậu Thành bắt xe buýt về quê ngoại. Hôm đó, chị vẫn còn cười, vẫn niềm nở ra đón tôi, vẫn đưa tôi những trái chín trong vườn nhà, vẫn dịu dàng vuốt tóc tôi và cái An khi không muốn đi chơi những buổi trưa nắng gắt mà nằm lì trên cái chõng tre đặt dưới giàn mướp hương của ngoại. Chị ngồi ghé mình trên chiếc chõng, còn chúng tôi thì cứ thế gối đầu lên đùi chị, tay mân mê những sợi tóc tơ mượt mà dài đến tạn eo của chị. Cái An bình thường hay gắt gỏng, hay ngang ngược là thế nhưng cứ y rằng gần chị là nó lại biến thành một kẻ khác ngay lập tức. Nó hiền lành như bao đứa con gái đang bước vào tuổi dậy thì, cũng biết vẩn vơ nghĩ ngợi đôi chút, cũng biết vân vê tà áo khi biết ngại. Đôi khi mới thấy nó giống chị đến thế.
Giàn mướp trên đầu chúng tôi đang đương đơm bông, những bông vàng rực và rập rờn như cánh bướm. Lá mướp xanh rờn và tươi mát, đủ dày để che đi cái nắng gắt của ngày hạ; nhưng thi thoảng vẫn thấy lấp ló những tia mảnh dẻ chiếu xuyên qua những kẽ bé ti ti.
Chị trỏ tay vào một bông hoa đương rung rinh trong cái gió Lào oi bức rồi đọc:
“ Chớ thấy xuân tàn hoa rụng hết
Trước sân sau nở một nhành mai”
Nghe vậy, tôi và An mới bật cười:
- Chị này buồn cười thế. Giờ này thì xuân cái gì nữa, hè rồi mà. Với cả, đây là hoa mướp chứ có phải mai đâu.
- Hai đứa này, mười hai tuổi đầu rồi, có phải trẻ con gì nữa đâu mà đến câu này còn không hiểu nổi.
Cái An phồng má, miệng dẩu ra vẻ như dỗi hờn:
- Chị quá đáng thế. Câu này chị được học từ hồi cấp ba rồi kia mà, bảo sao chị biết. Nếu bọn em lớn như chị rồi thì kiểu gì chả biết chớ.
Chẳng biết nghe có đúng hay không nhưng tôi vẫn hùa theo nhỏ:
- Phải rồi đó chị. Không chỉ là chưa biết thôi đâu mà con trai như em cũng khô khan lắm chứ, mấy thứ văn chương lãng mạn, ủy mị này khó hiểu lắm. Nhỏ kia đanh đá như con trai vậy á, bảo sao nó không biết như em vậy.
Tôi vẫn giữ trò châm chọc cái An như mọi ngày. Nhỏ đó nghe xong liền bật dậy ngay lập tức, chỉ thẳng mặt tôi rồi cãi nhau chí chóe. Thế là đang từ bàn về câu thơ của chị ngâm, chúng tôi đâm ra một cuộc cãi nhau vớ vẩn của trẻ con. Chị thấy vậy chỉ biết cười, để yên cho chúng tôi cãi nhau chán chê rồi lại lần về đùi chị tìm hơi ấm, đánh một giấc ngủ trưa ngon lành. Chúng tôi của hai năm trước vẫn hồn nhiên là như thế, vẫn làm như chị là một phần của cuộc sống không thể tách rời, rằng được ở bên chị là một lẽ tất nhiên, là một thói quen,... Mãi sau này, khi ngẫm lại câu nói đó, tôi mới chợt nhận ra ý nghĩa đượm buồn mà tràn đầy hi vọng của chị. Rằng chị giờ như cánh hoa mai, đã lìa xa chúng tôi thực rồi. Tức là, câu thơ là lời nhắn của chị với chúng tôi về ngày rời xa đi lấy chồng, nhưng tôi, hay kể cả An, đứa em gái ruột của chị cũng không hề hay biết. Chị đã giấu An vì biết nó sẽ buồn và đau lắm khi chị đi, chị biết điều đó nên đã cố gạt đi nước mắt để giữ gìn những ngày cuối hai chị em được ở bên nhau thật trọn vẹn, ý nghĩa. Thế nhưng, câu thơ chị đã nói, còn hàm chứa hơn đó là một niềm hi vọng, niềm ao ước: “Đừng vì chị đi mà buồn nhé các em. Rồi sẽ có ngày, các em sẽ tìm thấy cho mình một chỗ dựa mới, một chỗ dựa tinh thần của riêng mà không phải là chị”. Biết là vậy nhưng cả tôi và An, đến giờ vẫn buồn thật nhiều khi nghĩ về chị...
* * *
An ngồi móc đến gần chục cái nhẫn nhỏ xinh làm bằng cỏ thì cũng đã là gần trưa rồi. Gió Lào từng đợt thổi làm rát cả chân tay, mặt mũi. Cũng may có bóng râm của những cành nhãn mà cái nắng mới bớt oi bức đi nhiều. Bất chợt, tôi thấy nhỏ lên tiếng:
- Chị Hằng ấy, từng dạy tao làm cái này...
- Ừ, tao biết – tôi đáp gọn lỏn, vẻ như lơ đễnh
- Chị bảo tao là, cả đời chị như cỏ vậy. Là bụi cỏ bám lối con đường quê đất đỏ mù mịt, là cỏ mọc trong vườn ba, là cỏ giăng đầy những triền dồi thoai thoải với tiếng diều sáo mỗi chiều,... Chị bảo đến cả người chị, khắp đâu cũng toàn mùi cỏ...
- Vậy à? Chị đi lâu quá rồi, tao cũng chẳng rõ là người chị có như mùi cỏ không nữa.
Tôi giả vờ, cố tỏ vẻ như mình lỡ quên đi chị. Nếu nói thẳng lòng mình ra, rằng tôi cũng nhớ chị, cũng thương chị nhiều lắm thì chỉ làm cho cái An càng có cớ để buồn bã suốt ngày mà thương nhớ chị. Nhưng đúng thật, người chị toàn mùi cỏ. Chị gội đầu bằng bồ kết và hoa bưởi, thơm tho như chị Tâm con bác bán tạp hóa, chị Hòa cháu bà Tư, như chị Hạnh nỏi tiếng xinh xắn ở xóm dưới. Thế nhưng tôi và An lại chỉ ngửi thấy mùi cỏ vương trên tóc chị. Không phải thức mùi hăng hắc, ngai ngái sau cơn mưa mà mùi cỏ của chị, hòa với hương bưởi, hương bồ kết lại đặc biệt , thơm và thanh khiết đến lạ thường. Nếp áo chị cũng chỉ toàn ngửi thấy mùi cỏ. Hơi ngai ngái nhưng vẫn thơm đến lạ lùng. Trong túi áo chị thì lúc nào cũng thấy những chiếc chẫn cỏ được móc gọn gàng, nhỏ xinh; tay thì đương nhiên lúc nào cũng tràn đầy hơi cỏ bởi những ngày dạy An móc nhẫn, cùng tôi đi nhặt hoa dại về ép trog trang vở.
- Chị bảo tao, chị vẫn sẽ ở bên em, như cỏ vẫn giăng đầy lối em đi, vẫn vương đầy trong căn nhà em ở,... Lúc đó ấy, đáng ra tao nên nhận ra rằng chị đang cố nói với tao về cái ngày chị đi... Nếu biết sớm hơn, tao đã không hồn nhiên với chị như thế. Tao sẽ hỏi han, chia sẻ, nói chuyện, an ủi chị; tao sẽ ngăn bố mẹ không gả chị đi; tao sẽ không để cho chị phải đi, phải buồn, phải khóc,...
Tôi biết nhỏ như sắp khóc, nhưng thực sự thì tôi cũng chẳng biết phải ứng xử như thế nào bởi hay tôi cũng đang đồng tâm tư với nhỏ. Lặng yên hồi lâu, tôi mới đáp:
- Thế mày nghĩ người ta thương chị mày không? Biết đâu chồng chị lại yêu chị, thương chị thì sao?
Cái An không chút do dự, bật lại tôi ngay lập tức:
- Mày hỏi kì thế! Tao còn chưa thấy chị tao tỏ vẻ yêu ai bao giờ, chưa thấy chị bỏ việc đồng áng đi hẹn hò hay ra ngoài vào ban đêm. Cũng chưa bao giờ, tao thấy chị quen ai quá xa như làng bên kia cả... Chỉ tại bố, bố ép chị đi lấy chồng... Bố bảo nhà đó có điều kiện, nhất định sẽ thương yêu chị, không phải để chị cực khổ làm đồng, khuấy bánh đúc phụ bà... Thế nhưng, chồng chị, chị có quen từ trước đâu, cũng có yêu đâu mà lấy... Tao gặng hỏi mãi, bố mới nói. Toan định nói cho mày lúc dó thì chú Thành đã bảo mày về Hà Nội rồi. Năm ngoái, mày cũng chẳng về nữa...
Lần này thì tôi lặng im thật. Đó là sự thực mà bây giờ tôi mới vỡ lẽ. Suốt từ năm chị lấy chồng, tôi tránh về quê ngoại, vì không dám đối diện với tâm trí đã in sâu hình ảnh chị ngồi trong buồng chờ nhà trai đến mà buồn, với bóng chị nhỏ bé, xiêu xiêu trên con đường làng bám bụi đất đỏ; với nhỏ An bướng bỉnh, đanh đá mà thương chị không kể xiết, mười hai tuổi nhưng vẫn ăn vạ, nằm lăn ra đất để ngăn không cho chị đi, gào khóc, vùng vẫy, đòi bằng được ra ngăn chị,... Bởi vậy mà lần này trở về, tôi muốn đối diện với mọi chuyện. Tôi đã sợ hãi nhớ về cái ngày buồn đó mà bỏ rơi nhỏ An đương đau khổ vì xa chị, nhớ chị, xót chị. Thế nhưng ngay bây giờ, tôi muốn nhìn thẳng vào cái hiện thực đó. Tôi đã chẳng còn là thằng bé Bình năm xưa bám áo chị, để chị chở che. An đã một mình vật lộn, một mình chống chọi với tất cả những buồn đau kể từ ngày chị đi như thế; còn tôi thì chỉ biết trốn chạy... Trở về quê, gặp lại An, tôi đã thực sự nghĩ đến việc phải đối mặt với cảm xúc của chính mình đối vưới mọi chuyện. Nghĩ vậy,. Tôi leo tụt phát xuống cây, ngồi xuống bên cạnh nhỏ rồi nói:
- Ừ, tao hiểu ra rồi... Tao biết mày và tao đều buồn, đều rát nhớ, rát thương và lo lắng cho chị. Nhưng mà... chị đã đi rồi. Chị đang ở bên nhà đó, không phải ở cùng chúng ta. Buồn đau về chị cũng không phải là cách...
An cúi gằm mặt đầy suy tư. Đoạn ngước lên nhìn tôi, ầng ậng nước mắt:
- Bình... Ngày đó ba gả chị tao đi, liệu sau này ba có... gả tao đi không? Tao sợ lắm, tao sợ tao sẽ trở thành chị, chỉ biết lặng lẽ nghe theo ba mà đi láy chồng...
Tôi thấy vai nhỏ run lên bần bật như thể gặp rét giữa tháng sáu nóng nực. Từng giọt nước mắt lã chã rơi xuống thềm cỏ dưới đất.
- Tao cũng không biết nữa... Nhưng mày không phải là chị, đừng có đánh đồng cuộc đời mày và cuộc đời chị. Mày mới có mười bốn tuổi, sao lại lo nghĩ vẩn vơ điều đó chứ? Còn có tao mà. Lần này tao sẽ không trốn chạy nữa, tao sẽ bảo vệ mày, không cho mày bị gả đi đâu.
An khóc to hơn nữa, nhưng tôi biết rằng đó là những giọt nước mắt của sự an tâm. Nhất định, tôi sẽ không để An phải nghe theo ba, bị gả đi lấy chồng.
Đoạn ôm An trong vòng tay, tôi bất giác nhận ra nhỏ cũng toàn mùi cỏ, một mùi hương gợi nhớ như của chị vậy.
“Sao mà giống chị quá!”
Rồi để ý hơn, tôi thấy đằng sau gáy nhỏ cũng trắng ngần, cũng xinh xinh như của chị; tóc cũng mảnh và mượt như chị năm đó vậy. Và cái mũi, nét miệng, khóe mắt cũng có cái gì đó hao hao như chị. Mùi cỏ trên người đâm thảng vào cánh mũi tôi đầy hoài niệm. Nhưng mùi cỏ của An và mùi cỏ của chị, vẫn tháy có gì dó khang khác. Chị thơm tho pha lẫn hương hương bưởi, hương bồ kết; còn An lại nồng cái mùi ngai ngái của cỏ thuần khiết hơn, y hệt như cái bản tính của nhỏ vậy... Nhìn nó giống chị, chợt tôi cũng lo sợ, liệu sau này lớn lên, nó có giống đến tính cách của chị hơn không. Thế nhưng mùi hương trên người nhỏ làm tôi an tâm hơn bao giờ hết. Cứ như, nó thuần khiết và kiên cường, không dám cho bất cứ mùi hương nào xâm lấn, pha trộn. Tính cách ban sơ của An cũng vậy. “Bướng bình” một cách mạnh mẽ, kiên cường. Nhất định, An sẽ không đi, không đi láy chồng như chị.
Chiều hôm đó, tôi và nhỏ ngẩn ngơ thả mình theo tiếng diều sáo trên triền đê cuối làng. Cỏ cứ thế xộc lên mũi tôi, thân thương mà dịu dàng. Tôi nắm chặt tay An và tự nhủ lòng mình sẽ mãi nắm chặt tay nhỏ như thế này, không bao giờ buông, không để cho ai đem gả nhỏ cho người lạ.
An tựa đầu vào vai tôi.
Cỏ đu đưa theo cơn gió, thoang thoảng.
Mặt trời chênh chếch phía đằng xa với những vệt đỏ dài cuối ngày.
Tiếng sáo diều từ xa đâu đó vọng lại, hình như là ở làng bên.
Làng bên... Là làng mà chị theo chồng về ở.
Nếu như có ước mơ, tôi chỉ mong tiếng lòng mình cất lên theo cùng với tiếng sao diều:
“Chị Hằng ơi, chị khỏe không? Em Bình này. Cái An giờ đã có em bảo vệ. Chị hãy an tâm mà sống tốt, chị nhé!”
* * *
Chị Hằng là chị hai của nhỏ, đi lấy chồng từ độ năm kia. Chị hiền lắm, chị chẳng nạt ai bao giờ, không giống như con em bướng bỉnh, ương ngạnh kia. Thấy đứa nhóc lạ đứng ngoài xóm tèm lem nước mũi, chị nhẹ nhàng hỏi nó con ai, rồi rút khăn tay từ trong túi quần ra lau mặt, lau tay chân dơ toàn những bùn của nó. Lần tôi trèo tường sang ăn trộm mấy quả xoài nhà bà Lợi hàng xóm bị bắt được, chị cũng đứng ra xin lỗi giùm tôi, rồi giục tôi về nhà, không kẻo ngoại biết thì gay. Chị còn hứa sẽ dắt tôi đi chợ phiên chơi để mua quà cho ăn, đền bù những trái xoài ăn trộm hôm bữa. Suốt năm năm trời, tôi bám dính lấy chị hơn là con nhỏ em lầm lì, ngang ngược kia: chị dẫn tôi ra đê thả diều mỗi chiều đi làm đồng về sớm, chị đưa tôi ra chợ phiên chơi khi tới ngày họp chợ, chị đan quạt nan, chị làm quạt mo cau, chị kể tôi nghe về cái cây trong vườn nhà đã lớn như thế nào, kể con Miu đã biết bắt chuột, kể cái An (nhỏ em ương bướng) đi học bị thầy la ra sao,... mỗi khi ngồi nhìn chị khuấy bánh đúc phụ bà Thạch (bà nội chị, bạn của ngoại tôi) bán hàng.
Tưởng như mới ngày nào, chị còn dắt tay tôi đi trên con đường trưa nắng chang chang, mải mê nhặt nhạnh hoa dại về để ép vở thì hai năm trước thôi, chị đã lên xe hoa theo chồng. Tôi còn nhớ bóng chị nhỏ bé trên con đường làng đất đỏ năm đó, cát bụi vương trên tóc và bám đầy vào tà áo dài còn mới của chị. Mặt chị trắng hơn do được điểm phấn, môi cũng tươi hơn màu đỏ son, khắp người cũng lộng lẫy hơn với những dây chuyền, vòng đeo mà các bà, các mẹ tặng chị. Thế nhưng, chị của ngày thường và chị của hôm đó, sao mà khác nhau quá. Khi dắt tôi đi chơi, chẳng cần phấn má chị vẫn hây hây đỏ; chẳng cần son, miệng chị vẫn cười rạng rỡ; chẳng cần lễ vu quy, ngày trọng đại của đời người con gái mới tươi tỉnh, vui vẻ,... Chỉ là những trưa nắng, những chiều buông, những cánh hoa ép khô đầy trong tập vở, những câu chuyện phiếm, những tàn khói cay xè mắt của căn bếp củi nhỏ hẹp chị vẫn thường khuấy bánh đúc giùm bà,... Chị sao mà buồn quá... Chị không khóc, mặt vẫn bình thường như bao ngày trong mắt người khác, nhưng chẳng hiểu sao, tôi chỉ thấy chị buồn, thấy mắt chị trong veo một màu nước mắt không dám rỏ,... Lúc đó, tâm trí non nớt của tôi vẫn chưa hiểu được sao chị lại buồn. Đơn giản chỉ là sự thắc mắc day dứt mà đến giờ tôi mới lý giải được. Cái An bình thường cứng rắn, bướng bỉnh là thế nhưng hôm đó, nó là đứa khóc và buồn nhiều nhất. Nhà trai vừa bê tráp vào đến trong sân thì nó giãy nảy lên, nằm lăn ra đất ăn vạ, chặn lối không cho nhà bên đó bước đi:
- Mấy người về đi, nhà tôi không nhận sính lễ. Chị Hằng là của tôi, tôi không cho phép mấy người cướp chị đi. Muốn cướp chị thì bước qua tôi đây này.
Thông gia bên đó sợ quá, chẳng biết làm sao mà dám bước qua nhỏ được. Bác Năm và bác Tâm xấu hổ quá, bảo thế nào nó cũng không chịu đứng dậy, đành gọi hai anh Tí và Tồ đang phụ bếp ra bế vác nó vào trong. Lúc đó, lòng tôi hơi quặn lại. Ngày vui của chị, ba mẹ chị mừng, bà con láng giềng mừng; nhưng tôi buồn, nhỏ An buồn và chị cũng đượm buồn. Đứng nép mình gần cửa buồng chị, tôi biết chị đang ái ngại khi phải nghe thấy em gái mình gào khóc, van xin nhà bên kia đừng cướp chị nó đi. Chị muốn khóc lắm, nhưng giờ thì biết sao được. Tay chị túm chặt lấy tà áo, cố gắng nuốt hết nước mắt vào trong để còn "tươi tỉnh" ra gặp bố mẹ chồng tương lai, ra gặp chồng, ra gặp quan khách hai họ. Tiếng cái An vẫn gào khóc ghê quá, cảm chừng như nó đang xé toạc cả bầu không khí "hạnh phúc" trong ngày vu quy của chị. Tôi chỉ biết thu mình sau cánh cửa bếp, buồn bã nhìn nhỏ đang gào lên gọi tên chị:
- Chị Hằng! Chị Hằng ơi! Đừng bỏ em mà đi chị ơi... Hức hức...
Và thế là chị Hằng về nhà chồng thật rồi. Cái An vẫn khóc, không buồn đứng dậy đi đưa dâu. Còn tôi thì chỉ dám đứng thẫn thờ ngoài cổng nhà bác Năm mà đưa mắt dõi theo chị. Vẫn cái bóng bé nhỏ,... Nhưng mới ngày đó chị nắm tay tôi và cái An, còn bây giờ, chị đang nắm tay chồng mình,.. Chị làm dâu nhà người thực rồi.
Đầu tuần trước ngày cưới, khi tôi mới lếch thếch theo cậu Thành bắt xe buýt về quê ngoại. Hôm đó, chị vẫn còn cười, vẫn niềm nở ra đón tôi, vẫn đưa tôi những trái chín trong vườn nhà, vẫn dịu dàng vuốt tóc tôi và cái An khi không muốn đi chơi những buổi trưa nắng gắt mà nằm lì trên cái chõng tre đặt dưới giàn mướp hương của ngoại. Chị ngồi ghé mình trên chiếc chõng, còn chúng tôi thì cứ thế gối đầu lên đùi chị, tay mân mê những sợi tóc tơ mượt mà dài đến tạn eo của chị. Cái An bình thường hay gắt gỏng, hay ngang ngược là thế nhưng cứ y rằng gần chị là nó lại biến thành một kẻ khác ngay lập tức. Nó hiền lành như bao đứa con gái đang bước vào tuổi dậy thì, cũng biết vẩn vơ nghĩ ngợi đôi chút, cũng biết vân vê tà áo khi biết ngại. Đôi khi mới thấy nó giống chị đến thế.
Giàn mướp trên đầu chúng tôi đang đương đơm bông, những bông vàng rực và rập rờn như cánh bướm. Lá mướp xanh rờn và tươi mát, đủ dày để che đi cái nắng gắt của ngày hạ; nhưng thi thoảng vẫn thấy lấp ló những tia mảnh dẻ chiếu xuyên qua những kẽ bé ti ti.
Chị trỏ tay vào một bông hoa đương rung rinh trong cái gió Lào oi bức rồi đọc:
“ Chớ thấy xuân tàn hoa rụng hết
Trước sân sau nở một nhành mai”
Nghe vậy, tôi và An mới bật cười:
- Chị này buồn cười thế. Giờ này thì xuân cái gì nữa, hè rồi mà. Với cả, đây là hoa mướp chứ có phải mai đâu.
- Hai đứa này, mười hai tuổi đầu rồi, có phải trẻ con gì nữa đâu mà đến câu này còn không hiểu nổi.
Cái An phồng má, miệng dẩu ra vẻ như dỗi hờn:
- Chị quá đáng thế. Câu này chị được học từ hồi cấp ba rồi kia mà, bảo sao chị biết. Nếu bọn em lớn như chị rồi thì kiểu gì chả biết chớ.
Chẳng biết nghe có đúng hay không nhưng tôi vẫn hùa theo nhỏ:
- Phải rồi đó chị. Không chỉ là chưa biết thôi đâu mà con trai như em cũng khô khan lắm chứ, mấy thứ văn chương lãng mạn, ủy mị này khó hiểu lắm. Nhỏ kia đanh đá như con trai vậy á, bảo sao nó không biết như em vậy.
Tôi vẫn giữ trò châm chọc cái An như mọi ngày. Nhỏ đó nghe xong liền bật dậy ngay lập tức, chỉ thẳng mặt tôi rồi cãi nhau chí chóe. Thế là đang từ bàn về câu thơ của chị ngâm, chúng tôi đâm ra một cuộc cãi nhau vớ vẩn của trẻ con. Chị thấy vậy chỉ biết cười, để yên cho chúng tôi cãi nhau chán chê rồi lại lần về đùi chị tìm hơi ấm, đánh một giấc ngủ trưa ngon lành. Chúng tôi của hai năm trước vẫn hồn nhiên là như thế, vẫn làm như chị là một phần của cuộc sống không thể tách rời, rằng được ở bên chị là một lẽ tất nhiên, là một thói quen,... Mãi sau này, khi ngẫm lại câu nói đó, tôi mới chợt nhận ra ý nghĩa đượm buồn mà tràn đầy hi vọng của chị. Rằng chị giờ như cánh hoa mai, đã lìa xa chúng tôi thực rồi. Tức là, câu thơ là lời nhắn của chị với chúng tôi về ngày rời xa đi lấy chồng, nhưng tôi, hay kể cả An, đứa em gái ruột của chị cũng không hề hay biết. Chị đã giấu An vì biết nó sẽ buồn và đau lắm khi chị đi, chị biết điều đó nên đã cố gạt đi nước mắt để giữ gìn những ngày cuối hai chị em được ở bên nhau thật trọn vẹn, ý nghĩa. Thế nhưng, câu thơ chị đã nói, còn hàm chứa hơn đó là một niềm hi vọng, niềm ao ước: “Đừng vì chị đi mà buồn nhé các em. Rồi sẽ có ngày, các em sẽ tìm thấy cho mình một chỗ dựa mới, một chỗ dựa tinh thần của riêng mà không phải là chị”. Biết là vậy nhưng cả tôi và An, đến giờ vẫn buồn thật nhiều khi nghĩ về chị...
* * *
An ngồi móc đến gần chục cái nhẫn nhỏ xinh làm bằng cỏ thì cũng đã là gần trưa rồi. Gió Lào từng đợt thổi làm rát cả chân tay, mặt mũi. Cũng may có bóng râm của những cành nhãn mà cái nắng mới bớt oi bức đi nhiều. Bất chợt, tôi thấy nhỏ lên tiếng:
- Chị Hằng ấy, từng dạy tao làm cái này...
- Ừ, tao biết – tôi đáp gọn lỏn, vẻ như lơ đễnh
- Chị bảo tao là, cả đời chị như cỏ vậy. Là bụi cỏ bám lối con đường quê đất đỏ mù mịt, là cỏ mọc trong vườn ba, là cỏ giăng đầy những triền dồi thoai thoải với tiếng diều sáo mỗi chiều,... Chị bảo đến cả người chị, khắp đâu cũng toàn mùi cỏ...
- Vậy à? Chị đi lâu quá rồi, tao cũng chẳng rõ là người chị có như mùi cỏ không nữa.
Tôi giả vờ, cố tỏ vẻ như mình lỡ quên đi chị. Nếu nói thẳng lòng mình ra, rằng tôi cũng nhớ chị, cũng thương chị nhiều lắm thì chỉ làm cho cái An càng có cớ để buồn bã suốt ngày mà thương nhớ chị. Nhưng đúng thật, người chị toàn mùi cỏ. Chị gội đầu bằng bồ kết và hoa bưởi, thơm tho như chị Tâm con bác bán tạp hóa, chị Hòa cháu bà Tư, như chị Hạnh nỏi tiếng xinh xắn ở xóm dưới. Thế nhưng tôi và An lại chỉ ngửi thấy mùi cỏ vương trên tóc chị. Không phải thức mùi hăng hắc, ngai ngái sau cơn mưa mà mùi cỏ của chị, hòa với hương bưởi, hương bồ kết lại đặc biệt , thơm và thanh khiết đến lạ thường. Nếp áo chị cũng chỉ toàn ngửi thấy mùi cỏ. Hơi ngai ngái nhưng vẫn thơm đến lạ lùng. Trong túi áo chị thì lúc nào cũng thấy những chiếc chẫn cỏ được móc gọn gàng, nhỏ xinh; tay thì đương nhiên lúc nào cũng tràn đầy hơi cỏ bởi những ngày dạy An móc nhẫn, cùng tôi đi nhặt hoa dại về ép trog trang vở.
- Chị bảo tao, chị vẫn sẽ ở bên em, như cỏ vẫn giăng đầy lối em đi, vẫn vương đầy trong căn nhà em ở,... Lúc đó ấy, đáng ra tao nên nhận ra rằng chị đang cố nói với tao về cái ngày chị đi... Nếu biết sớm hơn, tao đã không hồn nhiên với chị như thế. Tao sẽ hỏi han, chia sẻ, nói chuyện, an ủi chị; tao sẽ ngăn bố mẹ không gả chị đi; tao sẽ không để cho chị phải đi, phải buồn, phải khóc,...
Tôi biết nhỏ như sắp khóc, nhưng thực sự thì tôi cũng chẳng biết phải ứng xử như thế nào bởi hay tôi cũng đang đồng tâm tư với nhỏ. Lặng yên hồi lâu, tôi mới đáp:
- Thế mày nghĩ người ta thương chị mày không? Biết đâu chồng chị lại yêu chị, thương chị thì sao?
Cái An không chút do dự, bật lại tôi ngay lập tức:
- Mày hỏi kì thế! Tao còn chưa thấy chị tao tỏ vẻ yêu ai bao giờ, chưa thấy chị bỏ việc đồng áng đi hẹn hò hay ra ngoài vào ban đêm. Cũng chưa bao giờ, tao thấy chị quen ai quá xa như làng bên kia cả... Chỉ tại bố, bố ép chị đi lấy chồng... Bố bảo nhà đó có điều kiện, nhất định sẽ thương yêu chị, không phải để chị cực khổ làm đồng, khuấy bánh đúc phụ bà... Thế nhưng, chồng chị, chị có quen từ trước đâu, cũng có yêu đâu mà lấy... Tao gặng hỏi mãi, bố mới nói. Toan định nói cho mày lúc dó thì chú Thành đã bảo mày về Hà Nội rồi. Năm ngoái, mày cũng chẳng về nữa...
Lần này thì tôi lặng im thật. Đó là sự thực mà bây giờ tôi mới vỡ lẽ. Suốt từ năm chị lấy chồng, tôi tránh về quê ngoại, vì không dám đối diện với tâm trí đã in sâu hình ảnh chị ngồi trong buồng chờ nhà trai đến mà buồn, với bóng chị nhỏ bé, xiêu xiêu trên con đường làng bám bụi đất đỏ; với nhỏ An bướng bỉnh, đanh đá mà thương chị không kể xiết, mười hai tuổi nhưng vẫn ăn vạ, nằm lăn ra đất để ngăn không cho chị đi, gào khóc, vùng vẫy, đòi bằng được ra ngăn chị,... Bởi vậy mà lần này trở về, tôi muốn đối diện với mọi chuyện. Tôi đã sợ hãi nhớ về cái ngày buồn đó mà bỏ rơi nhỏ An đương đau khổ vì xa chị, nhớ chị, xót chị. Thế nhưng ngay bây giờ, tôi muốn nhìn thẳng vào cái hiện thực đó. Tôi đã chẳng còn là thằng bé Bình năm xưa bám áo chị, để chị chở che. An đã một mình vật lộn, một mình chống chọi với tất cả những buồn đau kể từ ngày chị đi như thế; còn tôi thì chỉ biết trốn chạy... Trở về quê, gặp lại An, tôi đã thực sự nghĩ đến việc phải đối mặt với cảm xúc của chính mình đối vưới mọi chuyện. Nghĩ vậy,. Tôi leo tụt phát xuống cây, ngồi xuống bên cạnh nhỏ rồi nói:
- Ừ, tao hiểu ra rồi... Tao biết mày và tao đều buồn, đều rát nhớ, rát thương và lo lắng cho chị. Nhưng mà... chị đã đi rồi. Chị đang ở bên nhà đó, không phải ở cùng chúng ta. Buồn đau về chị cũng không phải là cách...
An cúi gằm mặt đầy suy tư. Đoạn ngước lên nhìn tôi, ầng ậng nước mắt:
- Bình... Ngày đó ba gả chị tao đi, liệu sau này ba có... gả tao đi không? Tao sợ lắm, tao sợ tao sẽ trở thành chị, chỉ biết lặng lẽ nghe theo ba mà đi láy chồng...
Tôi thấy vai nhỏ run lên bần bật như thể gặp rét giữa tháng sáu nóng nực. Từng giọt nước mắt lã chã rơi xuống thềm cỏ dưới đất.
- Tao cũng không biết nữa... Nhưng mày không phải là chị, đừng có đánh đồng cuộc đời mày và cuộc đời chị. Mày mới có mười bốn tuổi, sao lại lo nghĩ vẩn vơ điều đó chứ? Còn có tao mà. Lần này tao sẽ không trốn chạy nữa, tao sẽ bảo vệ mày, không cho mày bị gả đi đâu.
An khóc to hơn nữa, nhưng tôi biết rằng đó là những giọt nước mắt của sự an tâm. Nhất định, tôi sẽ không để An phải nghe theo ba, bị gả đi lấy chồng.
Đoạn ôm An trong vòng tay, tôi bất giác nhận ra nhỏ cũng toàn mùi cỏ, một mùi hương gợi nhớ như của chị vậy.
“Sao mà giống chị quá!”
Rồi để ý hơn, tôi thấy đằng sau gáy nhỏ cũng trắng ngần, cũng xinh xinh như của chị; tóc cũng mảnh và mượt như chị năm đó vậy. Và cái mũi, nét miệng, khóe mắt cũng có cái gì đó hao hao như chị. Mùi cỏ trên người đâm thảng vào cánh mũi tôi đầy hoài niệm. Nhưng mùi cỏ của An và mùi cỏ của chị, vẫn tháy có gì dó khang khác. Chị thơm tho pha lẫn hương hương bưởi, hương bồ kết; còn An lại nồng cái mùi ngai ngái của cỏ thuần khiết hơn, y hệt như cái bản tính của nhỏ vậy... Nhìn nó giống chị, chợt tôi cũng lo sợ, liệu sau này lớn lên, nó có giống đến tính cách của chị hơn không. Thế nhưng mùi hương trên người nhỏ làm tôi an tâm hơn bao giờ hết. Cứ như, nó thuần khiết và kiên cường, không dám cho bất cứ mùi hương nào xâm lấn, pha trộn. Tính cách ban sơ của An cũng vậy. “Bướng bình” một cách mạnh mẽ, kiên cường. Nhất định, An sẽ không đi, không đi láy chồng như chị.
Chiều hôm đó, tôi và nhỏ ngẩn ngơ thả mình theo tiếng diều sáo trên triền đê cuối làng. Cỏ cứ thế xộc lên mũi tôi, thân thương mà dịu dàng. Tôi nắm chặt tay An và tự nhủ lòng mình sẽ mãi nắm chặt tay nhỏ như thế này, không bao giờ buông, không để cho ai đem gả nhỏ cho người lạ.
An tựa đầu vào vai tôi.
Cỏ đu đưa theo cơn gió, thoang thoảng.
Mặt trời chênh chếch phía đằng xa với những vệt đỏ dài cuối ngày.
Tiếng sáo diều từ xa đâu đó vọng lại, hình như là ở làng bên.
Làng bên... Là làng mà chị theo chồng về ở.
Nếu như có ước mơ, tôi chỉ mong tiếng lòng mình cất lên theo cùng với tiếng sao diều:
“Chị Hằng ơi, chị khỏe không? Em Bình này. Cái An giờ đã có em bảo vệ. Chị hãy an tâm mà sống tốt, chị nhé!”