Bút ký Cù Lao Chàm - Đà Nẵng

Vô Diện tiên sinh

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
15/8/14
Bài viết
189
Gạo
108,0
(Nhắc nhở: Nội dung bên dưới có liên quan đến lịch sử.)

Ngày 25/7/1793, John Barrow – nhà thám hiểm, quản trị và ngoại giao người Anh – đến Đà Nẵng cùng hạm đội của mình. Theo ông, lý do chính của việc cập bến Đà Nẵng là “bởi vì lúc bấy giờ phải chờ thuận gió và tình trạng sức khỏe của những người bệnh”.

Vậy mà, chỉ trong vỏn vẹn một tháng ở lại đây, Barrow tỏ ra mình là một nhà chiến lược tầm cỡ khi vừa nhìn ra thâm ý của Bá Đa Lộc (người Pháp), vừa nắm bắt rõ tình hình địa lý Đà Nẵng vừa hoạch định mục tiêu chính trị rõ ràng. Cụ thể:

Về Bá Đa Lộc, ông cho rằng ông giám mục người Pháp có mối quan hệ thân cận hoàng gia này đã tự ý soạn một bản “quốc thư” dùng khi ký thỏa ước cầu viện Versailles (1787). Dù trong “Đại Nam Thực Lục” chỉ nói đến việc vua (Gia Long) trao ấn chứ không hề nhắc đến “quốc thư”. Quan trọng hơn hết, nội dung bản quốc thư có đề cập việc dùng bốn vị trí chiến lược: Đà Nẵng, Hải Vân, Cù Lao Chàm, Côn Lôn để đổi lấy vài tàu chiến và binh lính từ Pháp. Và dù thật sự “thân thiết” với Nguyễn Phúc Ánh, nhưng có vẻ như Bá Đa Lộc cũng không hề quên quyền lợi của nước Pháp!


Tiếp đến, Barrow nắm bắt tốt vị thế địa lý – chính trị ở khu vực này. Ông này cho rằng: “Callao (Cù Lao Chàm) cách vịnh Đà Nẵng 30 dặm về phía nam (...) Đảo này chế ngự hoàn toàn cửa chính (cửa Đại) của con sông (Thu Bồn) chảy qua Fai-Fou (Hội An), thành phố mà ngày trước người ngoại quốc đến buôn bán. Đảo này hoàn toàn không thể vào được, trừ phía đối diện với cửa sông, nơi có một thung lũng nhỏ nhiều nước, ngay trên bờ biển, và ở đó có tất cả các hạm đội lớn nhỏ có thể vào đậu một cách an toàn.”

Thực tế thì đến bây giờ vẫn không khác lắm, lúc đi Cù Lao Chàm, chúng tôi phải tập trung ở bến tàu cửa Đại. Từ đây, đi bằng ca nô có thể mất đến gần 30 phút mới đến được Cù Lao Chàm. Đây dường như là cách duy nhất mà ta có thể đi từ đất liền ra cù lao.


Và vì thế, John Barrow lại viết: “Ngoài những vấn đề an ninh mà sự sở hữu bán đảo phồn vinh Đà Nẵng mang lại cho hàng bao hạm đội mà chúng ta đang sử dụng để buôn bán với nước Tàu, còn có sự tai hại, nếu để nó rơi vào tay một kẻ thù chủ động và kiên quyết (Pháp). Ta chẳng nên trông vào những nhỏ nhoi mà nền thương mại ở Ấn Độ đem lại; một hải cảng ở vùng này của thế giới nơi các hạm đội của chúng ta luôn luôn có được nước ngọt, có thể nghỉ ngơi, sửa chữa. Chỉ nhìn dưới góc độ này không thôi: khi các chiến hạm ta đến nước Tàu còn chưa rõ hướng đi, khi những phương tiện giữ gìn sức khỏe cho thủy thủ đoàn còn kém hơn hiện tại, mà chúng ta có được một cửa biển như thế này, để nghỉ ngơi, chờ tàu đi chậm hoặc bị bão chặn lại, là những trường hợp dễ xảy ra, thì tốt biết mấy. Sẽ còn nhiều khảo sát nữa để chứng minh việc cần phải buôn bán với nước Nam. Ở đây, tôi chỉ đưa ra vài nhận xét cho thấy công ty Ấn Độ (Anh) có lợi khi lập một thương điếm trong vùng bán đảo vịnh Đà Nẵng.”

Chính vì thế chính phủ Anh đã xin vua Gia Long cho mở thương điếm ở Cù Lao Chàm.

Nhưng thực tế, không hề có một sự chấp thuận nào từ nhà vua cả.


Đã từng có rất nhiều những ý kiến chỉ trích các ông vua Nguyễn triều: Gia Long – Minh Mạng – Thiệu Trị - Tự Đức đã quá bảo thủ, cố chấp, hèn nhát khi tự “đóng cửa” không chấp nhận “giao thương” với các nước phương Tây...

Vậy giờ qua định-hướng-thương-mại-chính-trị của một ông sứ người Anh hẳn ít nhiều giúp ta hình dung được cơ sở cho những thương mại đó chỉ là cái cớ bước đầu cho những thôn tính xâm lược phía sau. Mà Anh, Pháp, Bồ... hay bất kì quốc gia châu Âu nào cũng đều có tham vọng như thế.

Để rồi sẽ thấy vua Gia Long không cho Anh mở thương điểm ở Cù Lao Chàm là sáng suốt, là “nhìn rộng”, nhìn thấu. Minh Mạng nhất quyết không cho Anh, Pháp đặt chân đến Việt Nam là “nhìn đúng”.

Phải kể thêm có một điều hài hước là John Barrow đã cho rằng vua Gia Long thật sự có cảm tình với nước Anh và vua chắc chắn sẽ đồng ý “thương vụ Cù Lao Chàm” nếu không có sự nhúng tay của nước Pháp. Đã luôn tranh giành, hơn thua với nhau, nay lại càng có cớ để không ưa thêm... mà Barrow đâu hề biết Nguyễn Thế Tổ lúc nào cũng là người tỉnh táo... Đến lúc hấp hối cũng không quên cái ý thức độc lập, tự chủ dân tộc mà dặn Minh Mạng: “Đấy là cơ nghiệp gian nan của trẫm, nay giao cho con, con nên cẩn thận giữ gìn... Ta cũng sắp chết, không nói gì, chỉ có một việc là ngày sau phải cẩn thận chớ nên gây hấn ngoài biên.”


Nghĩ lại...

Chính nhờ sự mở cửa, giao lưu, làm những việc chưa một vị vua nào ở Việt Nam từng làm trước đó, ngoại giao với phương Tây, mà giai đoạn đầu của vua Gia Long, đất nước “mạnh” cả về quân sự lẫn kinh tế.

Thử đặt giả thuyết, vua Gia Long sau khi lên ngôi không hướng đất nước theo kiểu bế quan tọa cảng mà tiếp tục tăng cường quân sự, “trực diện đối đầu” thương mại lẫn chính trị... thì những đời sau sẽ như thế nào? Người Pháp liệu có ngang nhiên, dễ dàng chiếm lấy bán đảo Sơn Trà (1858) không?

Không chắc được điều gì sẽ xảy ra, nhưng có lẽ với nền tảng quân sự hiện đại thì ít nhất ta cũng sẽ gây cho thực dân Pháp lúc bấy giờ thêm những khó khăn nhất định. Để cần như vậy, chắc duy chỉ còn cậy nhờ may mắn. May mắn ở một “đội ngũ” các ông vua kế thừa phải vừa thông tuệ, vừa quyết liệt, vừa khoát đạt và phải nhất quán trong suốt một thời kỳ dài mới có thể hợp sức cùng nhau vượt qua cơn giông bão ấy. Tuy nhiên lịch sử đã diễn ra theo một cách khác.

Việc xâm chiếm thành công của Pháp chẳng phải hoàn toàn do lỗi Nguyễn triều dù chắc chắn là triều đình phải nhận lỗi, mà vấn đề còn nằm ở cái tầm vượt bậc của một đế chế phương Tây hiện đại mà bất kì một quốc gia nào đang trong tình trạng như nước Nam đương thời cũng khó lòng chống cự nổi. Buồn (cười) thay ai đó đã cho rằng:

“Gia Long lại dấy can qua
Bị Tây Sơn đuổi, chạy ra nước ngoài.
Tự mình đã chẳng có tài,
Nhờ Tây qua cứu tính bài giải vây.
Nay ta mất nước thế này,
Cũng vì vua Nguyễn rước Tây vào nhà,
Khác gì cõng rắn cắn gà,
Rước voi dẫy mả, thiệt là ngu si.”


Hiện giờ thì Đà Nẵng vẫn “phồn vinh” như thế, Cù Lao Chàm vẫn ít nhiều hoang sơ... Trên hết là những giá trị chiến lược vẫn chưa bao giờ mất đi.

Chúc may mắn.

(12/7/2019)
--------

P/s: Sơn Trà đối với nhiều người có lẽ sẽ chỉ là cái tên, nhưng với tôi Sơn Trà là một “cột mốc” mà lịch sử đã “ưu ái” lựa chọn.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Bên trên