Truyện ngắn Gặp mặt

Linh Lan 213

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
5/7/17
Bài viết
84
Gạo
0,0
17855552_632074990326482_7581743176846769490_o.jpg

Thứ tôi yêu nhất trong thành ngột ngạt mùi khói xe chính là những quán café vắng người. Cứ mỗi buổi chiều, tôi leo lên con ngựa sắt Wave A chạy vòng vòng thành phố. Sau bao lần như thế, tôi chấm được Kalimyn- một quán cà phê ở gần quảng trường thành phố. Nằm trên lầu 4 một chung cư kiểu Pháp giữa lòng thành phố, xung quanh là những tòa nhà cao ốc hào nhoáng hiện đại, quán cà phê mang theo mình phần không gian nhỏ bé của những nét đẹp cổ điển. Ngay lối vào cầu thang là hàng dọc các bức tranh trắng đen, tranh lưu niệm. Mỗi bức là một tác phẩm nghệ thuật được làm tỉ mỉ với những hình dáng, họa tiết khác nhau, tạo nên một bức tranh đẹp lung linh. Đó có thể là một bức tranh tĩnh vật, phong cảnh hay cũng có thể theo phong cách hơi trừu tượng, “quái dị” một chút.


Và những quán café như vậy chính là thiên đường cho một đứa nghiện viết lách như tôi. Đây là nơi tôi cảm thấy vô cùng thoải mái để viết, có thể ngồi hơi lâu. Ghế nệm êm, ánh sáng vừa phải, quán không quá đông và chọn lọc đối tượng khách nên không ồn ào xô bồ. Lại có cả đồ ăn nên yên tâm ngồi cả ngày.


Vào một ngày không mấy thuận lợi, khi câu chuyện tôi viết dở dang mãi chưa xong thì tôi gặp được hắn.

Hôm ấy tôi thèm viết, thế là xách ba lô đến quán ngồi. Từ bảy giờ sáng đến gần mười một giờ trưa mà chỉ viết được đoạn mở đầu. Thế là tôi ôm quyển bản thảo đi đi lại lại trong quán tìm ý tưởng, rồi bỗng đâu từ sau lưng tôi có người nói: “Em phục vụ ơi, cho anh gọi món.”

“Đây là quán café tự phục vụ cơ mà, tên nào lại ngốc thế chứ” – tôi nghĩ thầm.

“Em ơi cho anh gói món.”

“Em ơi. Có nghe thấy không?”

Tôi phì cười, quyết định quay lại xem tên ngốc đó là ai.

Đó là một gã trai có khuôn mặt non choẹt, dáng người cao, mặc hoodie xám tro, tóc tai chải chuốt sành điệu, vậy mà lại vào quán café tự phục vụ gọi món. Thật hài hước.

Hắn thấy tôi quay lại thì đứng hẳn dậy, vẫy tay: “ Em ơi cho anh gọi món. Anh kêu mấy lần rồi đấy.”

À, thì ra hắn thấy tôi ôm quyển bản thảo lại đi qua đi lại nên nghĩ là nhân viên phục vụ. Tôi lắc đầu, đi lại bàn hắn, mỉm cười nói: “Mình không phải nhân viên. Vả lại đây là quán café tự phục vụ, cậu không biết sao?”

Tôi thề là lúc đó biểu cảm của hắn có thể chọc cười bất cứ ai. Mắt chữ a mồm chữ o, mặt đỏ như say còn cả người đông cứng lại. Chắc là hắn đang tự hỏi bản thân mình sao lại làm một việc ngốc nghếch đến thế.

“Nếu cậu muốn gọi món thì quay lại chỗ cửa ra vào, quầy order ngay tại đó.”

Hắn cười ngượng, gật đầu nói cám ơn rồi đi ra phía cửa. Tôi quay trở lại bàn, trong lòng cười thầm mãi không thôi. Hắn quay lại với một ly café đen và một đĩa bánh ngọt, tiến đến bàn tôi rồi ngồi xuống. Tôi ngạc nhiên, dùng ánh mắt khó hiểu nhìn hắn. Hắn ngồi xuống thật thoải mái, đẩy đĩa bánh ngọt về phía tôi, cười nói: “Mời cậu. Coi như tạ lỗi vậy.”

Tôi thu lại ánh nhìn, cười nhẹ: “Bọn con trai các người vẫn còn dùng mấy chiêu cũ rích này tán gái sao?”

“Nếu cậu nghĩ như vậy thật thì tớ cũng không ngại gì.”

Chúng tôi nhìn nhau bật cười.

Hôm đó tôi và hắn ngồi nói chuyện vu vơ. Hắn hỏi tôi thích vẽ không, tôi bảo cái gì liên quan đến nghệ thuật đều thích hết, mấy năm trước có tập tành theo bạn bè đến lớp học vẽ, nhưng khổ nổi một chút hoa tay cũng không có, thế là học được tháng đầu đã từ bỏ, phí tiền hết sức. Hắn bật cười, mi mắt cong lên, để lộ con ngươi màu trà đặc biệt. Tôi ngập ngừng ngay giây phút đó. Một đôi mắt đẹp quá mức cho phép, làm cho đứa con gái như tôi cũng phải ghen tỵ. Hắn bảo ngày đầu học vẽ cũng vậy, thiếu chút nữa đã vứt hết đống màu tô và giá vẽ đi, nhưng do tiếc tiền nên không dám.

“Cậu có muốn tớ vẽ cho một bức chân dung không. Tớ vẽ hơi bị đẹp đấy.”

Tôi đang điên đầu vì câu chuyện mình viết mãi chưa xong, nhân cơ hội này coi như giải trí. Tôi gật đầu, tay chống cầm chờ đợi. Hắn lấy từ trong chiếc túi da ra một bản giấy A4, bút chì và tẩy, ra hiệu cho tôi ngồi thẳng dậy, chỉnh tư thế cho tôi và các thứ linh tinh trên bàn, sau đó hắn đưa bút ra phía trước nhắm trọng tâm, rồi bắt đầu phát những nét vẽ đầu tiên lên mặt giấy trắng, thành thạo như đã làm hàng tỉ lần. Tôi nheo mắt, nhìn người ta bận rộn nên không muốn làm phiền. Hắn vẽ mấy nét thì ngẩng mặt lên quan sát tôi, rồi lại cúi xuống vẽ. Tôi thích nhất là nhìn ai đó tập trung làm việc, vì nó khiến tôi bị thu hút bởi bầu không khí họ tạo ra. Tôi ngồi như tượng hơn ba mươi phút, chân và lưng bắt đầu mỏi, tôi khẽ cựa mình, thật khẽ để không phá vỡ mạch cảm xúc của chàng họa sĩ. Bây giờ tôi mới chính thức trải nghiệm nỗi khổ khi làm mẫu vẽ, lúc trước có người bảo tôi đây là công việc nhẹ nhàng nhất trên đời, đúng là lừa người mà. Tôi đang thầm nghĩ không biết khi nào mới xong đây, thì ngay lúc đó bút vẽ được đặt xuống, hắn nhìn tôi cười rạng rỡ, nói: “Tớ vẽ xong rồi. Tặng cậu.”

Hắn chìa bản vẽ về phía tôi. Giây phút tôi nhìn thấy chính mình trên trang giấy, tôi thừa nhận rằng bản thân đã hoàn toàn bị đánh gục. Nó thật đến nỗi nếu không chính mắt thấy hắn vẽ thì chắc ai cũng nghĩ đây là ảnh chụp trắng đen, đường nét chân thật mà tinh tế, phô diễn được hết những nét nổi bật trên khuôn mặt tôi, hoàn toàn không phải là mấy bản vẽ vớ vẩn của tôi khi mới bắt đầu học. Tôi đã đánh giá sai hoàn toàn con người của hắn qua vẻ bề ngoài và cách nói chuyện.

“Cậu là họa sĩ phải không?” – Tôi thắc mắc.

“Haha… cậu nghĩ như vậy thật à, vinh hạnh quá.”

“Không phải à.”

“Tớ trẻ trung thế này thì chỉ là sinh viên thôi.”

Tôi bật cười vì sự tự tin quá khổ của hắn. Tôi ngắm nghía bức tranh thật lâu, sau đó nói: “Cám ơn cậu nhé.”

“Không có gì. Hẹn gặp cậu vào một dịp khác. Tớ đi trước đây.” – nói đoạn hắn đứng lên đi về phía cửa, rồi bất chợt dừng lại, xoay người nói: “Tớ thanh toán cả rồi. Nhớ ăn hết đĩa cheese cake đấy. Bye.”

Tôi không đáp lời, chỉ vẫy tay chào. Bóng dáng cao gầy ấy nhanh chóng rời khỏi tầm mắt tôi rồi mất hút. Trong lòng tôi bỗng cảm thấy có chút hụt hẫng, một người xa lạ, có đôi mắt màu trà cực đẹp, vô tình đến và tặng cho tôi một bức tranh. Sự gặp mặt của những kẻ xa lạ đôi khi chỉ là sự tình cờ như thế.

ØØØ​

Những ngày sau đó tôi vẫn đến Kalimyn, từ hôm ăn thử đĩa cheese cake của hắn, tôi bắt đầu nghiện món này lúc nào không hay. Tôi ngồi ở chiếc sofa gần cửa sổ, phóng tầm mắt ra bên ngoài. Sau những cơn nắng gắt triền miên và ngột ngạt của ngày hè, cuối cùng mùa thu cũng ghé qua và mang đến không khí dễ chịu của đầu thu. Trời tháng tám, nắng vẫn chưa tắt hẳn nhưng đã dịu dàng hơn rất nhiều so với những ngày tháng sáu tháng bảy trước đó. Cuối cùng, cái mùa tôi mong đợi nhất trong năm cũng đã tới, mùa thu ghé mang theo bầu trời xanh và áng mây trắng, được ngắm nhìn bầu trời ấy qua ô cửa sổ tầng bốn, đó là một điều thật tuyệt! Trên cao bầu trời như cao ra, rộng thêm. Gió thổi nhè nhẹ, làm mái tóc ngắn ngang vai của tôi lất phất bay, lòng tôi bỗng khoan khoái lạ thường.


Câu chuyện tôi viết vẫn tiếp tục. Nhưng thay vì “phiêu” cùng những nhân vật trong truyện, trong đầu tôi bây giờ là hình ảnh chàng trai có đôi mắt màu trà ấy. Thế là tôi chẳng viết được gì.

Tôi đích thực là một con mọt sách. Từ nhỏ đã có cảm giác đặc biệt với con chữ. Thế là trong khi bạn bè cùng lứa mê mẩn mấy thứ kẹp tóc, gấu bông, dây chun nhảy dây thì tôi đã dùng toàn bộ tiền tiết kiệm của mình dâng hiến cho tiệm thuê sách. Từ lúc chỉ là cô bé bảy tám tuổi cho đến tận năm mười tám tuổi gia tài của tôi gần chục bộ truyện tranh đủ thể loại, rồi tạp chí, sách báo, văn học nước ngoài hay tác phẩm dân gian, hiện đại, kinh dị, tôi đều có hết.

Có người bảo tôi quá mơ mộng nên mới suốt ngày giam mình trong trang sách. Nhưng họ đâu biết rằng, chính những trang giấy đầy chữ ấy lại là nơi chữa lành mọi vết thương của tôi. Mùi thơm của sách, sự mềm mại của con chữ và những quán café vắng người, thật sự là liều thiếu an tĩnh cho những ngày tôi gặp phải sóng lớn. Tôi tạo ra nhân vật trong truyện từ những nỗi buồn của mình. Những câu chuyện ấy chắc chắn không phải màu hồng phấn trẻ thơ, hay ngọt đến sâu răng theo hình mẫu công chúa và bạch mã hoàng tử, chúng phải thực, càng bi thương càng gần với thực tế càng tốt, như thế mới đủ miêu tả nỗi buồn của tôi, của người.

Nhưng dạo đây tôi không hay buồn nữa. Tôi nghĩ đã đến lúc viết chuyện gì đó vui vẻ tí. Thế là tôi lại loay hoay tìm cảm hứng. Và bỗng tôi nghĩ tên hắn. Liệu hắn có phải là nút thắt mở ra điều gì mới trong câu chuyện buồn lê thê của tôi không?

Tôi lại đến Kalimyn, ngồi cuộn mình ở chiếc ghế sofa, nhấm nháp ly chocolate nóng tỏa hương thơm lừng, đây là thức uống chuẩn nhất cho không khí se lạnh của mùa thu. Đôi khi tôi tự hỏi tại sao bản thân lại cô đơn thế này? Tôi vẫn nhớ khi còn là cô bé mười bảy mười tám tuổi, trong lòng tràn đầy hy vọng về một thế giới hạnh phúc, ấm êm, yên bình. Tôi ước mơ trở thành một tác giả truyện online, tôi mang điều ấy kể cho ba mẹ nghe và họ bảo tôi ảo tưởng, bắt tôi từ bỏ ước mơ của mình. Cho đến khi tôi bị bạn thân phản bội, bị cô lập, gặp tai nạn giao thông khiến trên mặt mang hai vết sẹo lớn, trải qua căn bệnh trầm cảm, một trận bệnh tưởng như mang tôi đi khỏi thế giới này,… tôi bắt đầu sợ người, sợ lại phải trải qua những ngày tháng sống còn khó khăn hơn chết một lần nữa. Nên tôi lựa chọn giam mình lại, mỗi ngày điểm đi và về của tôi là một đường thẳng gồm nhà, trường học, lớp học thêm, tôi có không bạn bè, không tiếp xúc, không hoạt động giao tiếp với bất kì ai. Nếu lúc đó ai hỏi tôi trên đời này thứ gì đáng sợ hơn cả ma quỷ, tôi sẽ dẫn họ đi xem nhân tâm. Sự phản bội và bị bỏ rơi đã khắc vào nơi sâu nhất trong đáy lòng tôi.

Rồi tôi lên đại học. Lại một lần nữa tôi bị khủng hoảng. Tôi nghĩ rằng lên đại học là bắt đầu cuộc sống mới, nhưng tôi sai rồi! Tôi như kẻ đi lạc trên đại lộ không người. Tôi không biết phải làm gì, hoàn toàn mất đi khả năng kết nối với bên ngoài, mỗi ngày chỉ biết đến giảng đường rồi về phòng viết truyện. Chán nản với hiện thực, tôi bỏ lớp và đi lang thang khắp thành phố. Quán café vắng người làm bạn với tôi cho đến khi chàng họa sĩ có đôi mắt màu trà xuất hiện. Và may thay lần gặp mặt ấy không phải duy nhất.

Hôm nay tôi muốn đổi gió, thay vì đến quán ngồi như những lần trước, tôi đi xe buýt ra quảng trường thành phố. Tôi đến vào lúc trời xế chiều, đây cũng là lúc những nghệ sĩ đường phố bắt đầu xuất hiện.Tôi bắt gặp những nhóm nghệ sĩ trình diễn với nhiều phong cách, thể loại âm nhạc khác nhau. Từ nhạc Mỹ Latin sôi động cho đến những ca khúc nhạc nhẹ, nhạc trẻ, nhạc hoà tấu, các loại hình nghệ thuật truyền thống như hát xẩm, đờn ca tài tử thỉnh thoảng cũng có bắt gặp. Khung cảnh mọi người cùng nhau đứng khoác vai đu đưa, hát theo điệu nhạc một cách thoải mái khiến tôi ngỡ ngàng và rồi bật cười thích thú. Tôi tiếp tục đi theo con đường lát gạch. Ngay dưới chân tượng đài tưởng niệm, những bức tranh chân dung được thực hiện bởi bởi một chàng hoạ sĩ dựng quầy vẽ tranh tại đây. Có rất nhiều người đứng xung quanh chàng trai ấy, họ quay phim chụp ảnh, khen ngợi có, bình phẩm có. Thế là máu tò mò của tôi nổi lên, tôi bước lại gần, nhưng họ đứng đông quá chẳng nhìn thấy gì, tôi cố lách qua những người phía ngoài, rồi chen cho bằng được vào bên trong. Nhờ cái thân thể nhỏ bé này mà tôi cuối cùng cũng lọt được vào.

Lúc tôi nhìn thấy hắn, đầu óc tôi chấn động một phen. Hắn mặc chiếc hoodie xám tro – giống với cái hắn đã mặc, vẫn điển trai như lần đầu tôi gặp. Hắn ngồi trên chiếc ghế tựa nhỏ, dùng hai chân làm điểm tựa cho khung tranh, một tay đỡ đỡ phía sau khung còn tay kia luyến thoắt trên mặt giấy. Khuôn mặt hắn tỉnh bơ, đôi mắt màu trà như cười như không. Biểu cảm không phải đang tập trung làm việc mà giống như đang thưởng thức chính tác phẩm của mình. Có lẽ phong cách của những kẻ “lập dị” là vậy chăng?

“Xong.” – hắn bất ngờ lên tiếng.

Những người đứng xung quanh lại bắt đầu xôn xao. Hắn biết điều đó nhưng vẫn bình tĩnh, từ từ xoay bức tranh lại. Là hình ảnh một cô gái đang ngồi bên ô cửa sổ, mái tóc ngắn ngang vai bị gió thổi rối, tay cô ôm lấy thân mình, khuôn mặt tựa nơi khung cửa hướng ra ngoài, nhìn mông lung vào khoảng hư không trước mắt. Đôi mắt cô gái được vẽ vô cùng sống động. Đó là một đôi mắt u sầu, chất chứa sự cô đơn kín đáo.

Mọi người vỗ tay tán thưởng. Hắn mỉm cười, cúi đầu nói cám ơn. Hắn đứng lên, đặt bức tranh cẩn thận lên chiếc kệ gỗ, rồi hắn quay về phía mọi người nói: “Xin lỗi mọi người, bức tranh này tôi không bán. Mời mọi người chọn tranh khác. Thành thật xin lỗi.”

Một người đàn ông thắc mắc lên tiếng hỏi: “Có lý do gì không? Tôi thực sự rất thích bức tranh này.”

Hắn mỉm cười, chậm rãi nói: “Bức tranh này tôi dành tặng cho một người bạn. Đó là một cô gái rất đặc biệt, mê viết lách, thích ngồi lì hàng giờ ở những quán café vắng người để trốn “người”. Tôi biết cô ấy qua những câu chuyện trên blog của cô ấy, nó khiến tôi rung động bởi sự chân thật trong từng câu chữ, giống như đang thay người khác giãi bày tâm sự vậy. Và rất may mắn là tôi đã gặp được cô ấy ở một quán café. Sau đó có mấy lần tôi trở lại, đều bắt gặp hình ảnh cô ấy ưu tư ngồi bên cửa sổ. Thế là tôi quyết định vẽ một bức tranh cho cô ấy, để khi nào gặp lại tôi sẽ tặng cho cô ấy.”

Người đàn ông mỉm cười, có vẻ ông ấy hài lòng với câu trả lời của hắn.

Mọi sự gặp gỡ trên đời có lẽ đều được số phận sắp đặt. Bạn gặp ai, chia tay với ai, có thể đã được định trước. Và sự tái hợp cũng thế, nó dựa vào duyên phận của cả hai người.

Tôi cảm thấy trong lòng đang dâng lên một cảm xúc rất lạ, vừa ấm áp vừa ngọt ngào. Nó giống như hương vị của ly chocolate nóng mà tôi thường uống ở Kalimyn, lúc mới uống vào sẽ bị vị đắng và hơi nóng làm cho nhăn mặt, nhưng đến khi nuốt xuống, chỉ còn hương vị ngọt ngào đọng lại.

Tôi cười, nụ cười rạng rỡ nhất từ trước đến nay của tôi, bước hẳn lên phía trước đám đông, nghiêng nghiêng đầu nhìn hắn. Hắn thoáng ngạc nhiên, rồi bật cười thành tiếng, khóe mắt hắn cong dài để lộ đôi mắt màu trà tuyệt đẹp.

“Vậy nếu bây giờ người bạn đó của cậu xuất hiện, cậu có thể tặng bức tranh cho cô ấy không?”

Hắn tiến về phía tôi, nhìn tôi dịu dàng, nói: “Tất nhiên là được rồi, nó thuộc về cậu mà.”

Dòng người trên quảng trường vẫn tấp nập ngược xuôi, dường như chỉ có hai người đang dừng lại để gặp nhau.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Bên trên