TẾT SỚM
Ký của Quynn.
Có thể nhiều người đã quên tiếng pháo Tết vì nhiều năm nay không còn đốt pháo nữa nhưng tôi thì cứ Tết đến lại nhớ tiếng pháo, nhớ mùi khói pháo. Có thể, đó là vì những kỷ niệm khó quên với pháo Tết. Mỗi năm, vào dịp Tết, những kỷ niệm ấy lại sống lại trong tôi và hiển hiện trước mắt như mới ngày hôm qua...
Đó là những năm tháng chiến tranh, đau thương và mất mát. Đó là những ngày cận Tết cuối năm 1971.
Ngày đó, tôi còn bé lắm, mới đang học lớp 5 tại một vùng quê nghèo như bao vùng quê khác của Miền Bắc Việt nam. Trong ký ức của tôi, thời đó, cả làng chỉ toàn là những ngôi nhà mái rạ, thấp lè tè, nép mình dưới bóng tre. Làng xóm vắng vẻ vì đàn ông từ độ tuổi 18 đến 45 lên đường vào Nam chiến đấu hết cả nên ở làng chỉ còn toàn ông già, bà cả, phụ nữ và bọn nhóc con chúng tôi. Làng đã ít người lại càng vắng vẻ hơn. Trong làng ít khi nghe thấy tiếng người, toàn là tiếng chim chóc và thỉnh thoảng thì thêm tiếng gà xao xác. Ban ngày đã vậy, ban đêm thì còn buồn hơn. Trong làng chỉ một màu tối đen như mực. Có đến gần ngôi nhà nào đó thì phải vào đến sân mới thấy chút ánh sáng yếu ớt, le lói, vàng vọt hắt ra từ một ngọn đèn dầu nhưng cũng chỉ đến sau 9 giờ tối là cả làng hoàn toàn chìm trong đêm đen và nếu có tiếng động thì cũng chỉ là vài tiếng chó sủa trăng sao.
Nói chung là buồn. Xóm làng lúc nào cũng im ắng nhưng cũng một tháng đôi ba lần ồn ĩ, xôn xao. Đó là khi làng nhận được tin báo tử từ huyện đội. Cứ mỗi khi trong làng đang yên ắng chợt nghe tiếng thét gào, khóc gọi chồng, gọi cha, gọi anh, gọi em là biết ngay làng vừa nhận được tin báo tử. Hôm sau, cả làng sẽ tập trung tại nhà có người thân hy sinh ở chiến trường để làm lễ truy điệu. Một trăm cái lễ truy điệu thì giống nhau cả một trăm và tất cả đều hy sinh ở chiến trường miền Nam. Giấy báo tử thì do người làm việc ở Ủy ban xã đưa đến, cho nên nhà nào tự dưng có người của Ủy ban xã đến thì tám chín mươi phần trăm là đến đưa giấy báo tử của con, em ở chiến trường. Hầu như nhà nào ở làng tôi cũng có người đang ở chiến trường nên lúc nào cả làng cũng như nín thở, rón rén chờ tin dữ.
Cả hai cuộc chiến tranh ném bom phá hoại miền Bắc của Mỹ, làng tôi chỉ hứng có vài quả bom, dăm quả tên lửa nên có thể nói bề ngoài thì chiến tranh không chạm đến làng tôi nhưng thực ra nỗi đau mất mát quá lớn đã đến tận ngóc ngách từng gia đình, đến nỗi bọn nhóc con chúng tôi cũng già dặn hẳn lên, quên cả cười đùa. Trẻ con đã vậy thì người lớn càng khắc khổ hơn. Hầu như họ chẳng bao giờ cười. Gặp nhau thì toàn là hỏi thăm nhau có nhận được tin tức gì của con, em không và rồi lại khóc với thở dài.
Nhà tôi có 5 anh em : 3 trai, hai gái. Ông anh cả đã vào chiến trường từ đầu năm 1965 và bặt luôn tin tức. Ông anh thứ ba tên Thao khi vừa 17 tuổi, trốn nhà đi thanh niên xung phong cuối năm 1965 sau khi viết đơn bằng máu xin đi bộ đội không được. Ngày anh ấy đi tôi còn bé quá nên chẳng nhớ gì. Tôi nghe kể rằng : Hôm ấy, bố tôi đang cùng cán bộ xã đi Lào Cai mua sắn về cứu đói cho dân nên ở nhà chỉ có mấy mẹ con. Giữa bữa cơm trưa, khi cả nhà đang ngồi ăn khoai thay cơm thì anh ấy chợt bỏ bát xuống vừa khóc vừa nói : Mẹ ơi, con đi đây. Mẹ tôi còn đang ngơ ngác, chưa kịp hiểu chuyện gì thì anh ấy đã ôm túi quần áo giấu sẵn vừa khóc vừa chạy ra ngõ. Chị dâu tôi chợt nhớ ra : Chết rồi, hôm nay thanh niên làng đi Thanh niên xung phong mẹ ạ. Mẹ tôi òa khóc, cuống quýt dúi vào tay chị dâu tôi mấy đồng bạc nhàu nát : Con chạy theo đưa cho nó. Chị dâu tôi vừa chạy vừa gọi em nhưng anh tôi thấy chị chạy theo thì lại càng chạy như ma đuổi. Đằng sau, mẹ tôi vừa khóc gọi tên anh tôi, vừa chạy vừa ngã dúi dụi…Đến khi chị tôi đến được nơi tập trung quân thì xe đã chạy.
Anh Thao tôi từ lúc trốn nhà đi TNXP chưa một lần về phép vì bom pháo, tắc đường. Đến giữa năm 1968 thì anh ấy được chuyển sang bộ đội và hành quân vào luôn Tây nguyên. Ấy là lá thư hiếm hoi giữa năm 1968 của anh ấy nói vậy.
Bà chị thứ hai lấy chồng ngay trong làng nhưng chồng cũng đi bộ đội. Chị dâu tôi ở riêng nên ở nhà tôi chỉ còn ông bố thương binh chống Pháp, bà mẹ ốm quanh năm, tôi và con em út. Mẹ tôi chưa đến 50 mà trông đã như người 60 tuổi. Mỗi khi trong làng có báo tử là mẹ tôi lại khóc và hầu như đêm nào mẹ tôi cũng khóc. Tuổi thơ của tôi đẫm nước mắt của mẹ.
Đầu năm 1971, mẹ tôi mất trong héo mòn, mong mỏi tin con. Suốt cuộc đời của mẹ là những tháng ngày héo hon chờ đợi và thấp thỏm chờ tin dữ. Năm 1947, khi mẹ đang có thai anh Thao thì một hôm, trên đường đi gặt lúa thuê, bố tôi đã trốn ra vùng kháng chiến, bỏ lại một lời nhắn qua bác tôi là đã đi bộ đội và từ đó bặt luôn tin tức. Mẹ tôi đã lập bàn thờ bố tôi sau khi nghe tin ông đã chết. Tuy nhiên, cuối năm 1958, ông đã trở về với vài vết thương trong người và đôi tai nghễnh ngãng vì sức ép của bom. Có lẽ, trái tim ốm yếu của mẹ không còn chịu đựng được nữa nên phải ngừng đập...
Sau khi mẹ tôi mất, bố tôi chỉ còn như cái bóng. Làng xóm đôi khi lại rộ lên tin đồn các anh tôi đã hy sinh và điều đó có vẻ thật hơn vì từ lâu nhà tôi chẳng nhận được một lá thư nào từ chiến trường...
Một hôm, chiều đã muộn, làng xóm đã lên đèn mà tôi vẫn chưa thấy bố về nhà. Mấy hôm trước, thấy bố khác lắm nên tôi lo lắng nói với các chị. Cả nhà đi tìm bố khắp làng trên xóm dưới vẫn không thấy. Đến gần 9 giờ tối thì có người làng bảo là có gặp ông đang đi ở đường 10 cách nhà khoảng hơn 30 cây số và đang đi về hướng sang Thái bình. Ông chỉ mặc một cái quần dài, ở trần, tập tễnh chen lẫn giữa các đoàn xe kéo pháo hành quân vào Nam, hai tay ghì chặt trước ngực hai khung ảnh của các anh tôi.... Đàng sau ông là lũ trẻ con chạy theo trêu chọc nhưng ông cũng chẳng nói gì mà ai hỏi cũng chỉ nói là vào Miền Nam tìm hai con trai.
Tôi cũng không nhớ họ hàng đã cử con cháu những ai, mượn xe đạp của ai để đi tìm ông theo hướng người làng đã chỉ nhưng chỉ biết đưa được ông về nhà thì trời cũng đã sáng. Sau đó, ông ốm mất gần một tháng...và lại càng lầm lũi, không nói, không rằng...
Tôi vẫn còn nhớ những ngày giáp Tết, cuối năm 1971. Mặc dù, không khí chiến tranh ảm đạm vẫn còn nhưng làng xóm cũng đã có chút hơi hướng ngày Tết. Đâu đây, thỉnh thoảng lại có tiếng pháo tép đì đẹt nổ phát một của bọn trẻ con, tiếng người lớn giục nhau cấy hái để còn kịp dọn nhà, đón tết. Tôi vẫn là đứa trẻ nên tết đến việc đầu tiên là phải có pháo. Tôi cũng không biết bằng cách nào mà rồi tôi cũng có hơn chục viên pháo tép, nhét đầy hai vỏ bao diêm để dành cho đêm 30 và sáng mùng Một Tết. Tôi mong ngóng từng ngày để đến lúc được đốt pháo, được nghe tiếng pháo, được hít cái làn khói pháo cay cay, thơm thơm khó tả ấy...
Hôm đó, hình như là chiều 27 hoặc 28 Tết . Lúc đó cũng đã muộn lắm rồi. Ngoài đồng sương đã giăng mờ mờ. Trong làng đã có tiếng gà xao xác lên chuồng, tiếng người lớn gọi con về ăn cơm. Trời cũng nhá nhem tối. Tôi cũng chẳng nhớ 3 bố con tôi hôm đó có nấu cơm không, có ăn cơm không nhưng tôi nhớ lúc đó bố tôi đang ngồi ngoài sân vót nan tre, dáng ông vẫn lầm lũi như mọi ngày...
Chợt ông ngẩng nhìn lên và chết sững. Ông nhìn trân trân ra ngõ, bất động. Con dao trên tay ông rơi xuống và cứa thẳng vào mu bàn chân. Máu ứa ra nhưng ông không hề hay biết. Từ ngoài ngõ, thấp thoáng bóng chị Mánh – Hội phụ nữ xã đang đi vào. Tim tôi bỗng thắt lại và tôi nghĩ đến cái giấy báo tử của các anh tôi.
Thời gian như đông đặc lại và 2 bố con tôi chết lặng cho đến khi chị Mánh reo lên : Ông Chỉnh ơi, có thư chú Thao nhé. Tôi hét lên, nhảy bổ ra còn bố tôi thì lập cập đứng dậy. Ông nói không thành lời, tập tễnh bước vội ra phía ngõ. Những giọt máu từ bàn chân ông nhểu từng giọt sẫm lại trên mặt sân.
Bố tôi run run đón chiếc phong bì bằng giấy vàng xỉn, loang lổ nhưng ông run quá không thể nào bóc được. Chị Mánh phải bóc ra và đọc hộ. Khi chị vừa đọc : Tây nguyên ngày...Bố, mẹ và các em thương....thì tôi chạy vào nhà, cuống quít lục túi xách lấy ra hai cái hộp diêm lèn đầy pháo tép. Tôi vừa hét như điên vừa đốt những quả pháo tép để dành cho ngày Tết. Chả biết do khói pháo hay gì nữa mà mắt bố tôi và cả mấy người hàng xóm vừa chạy sang dàn giụa nước mắt. Tôi đã đốt hết sạch những quả pháo để dành và Tết năm đó tôi không có pháo vì nhà tôi đã đón Tết sớm.
Có lẽ, dù không có pháo nhưng tết năm đó nhà tôi rất vui. Bố tôi đã tươi tỉnh và không còn lầm lũi nữa mặc dù lúc đó là cuối năm 1971 mà lá thư anh tôi gửi đề ngày ...tháng 9 năm 1968.
Trong đời tôi đã có nhiều lần đốt pháo nhưng không bao giờ tôi quên được lần đốt pháo này: lần đốt pháo đón Tết sớm vào ngày 27 và chỉ có hơn chục quả pháo tép.
Sau Tết vài tháng, gia đình tôi nhận được giấy báo tử của anh tôi, anh Thao. Trên giấy báo tử ghi anh tôi hy sinh ngày 23 tháng 5 năm 1969 tại mặt trận phía Nam.
Đến bây giờ tôi vẫn còn giữ lại được lá thư của anh tôi. Lá thư phải mất hơn 3 năm mới về tới nhà và sau khi anh tôi đã hy sinh được 3 năm. Tôi đã đón nó bằng những quả pháo tép để dành cho ngày Tết. Đến bây giờ, mỗi khi đến ngày 27, 28 tết tôi lại rưng rưng nhớ lần đốt pháo ấy ...
Hà Nội, ngày 19/2/2015
( Tác phẩm đạt giải Khuyến khích cuộc thi viết ký và Truyện ngắn năm 2014-2015 của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Hải Phòng - Tạp chí Cửa Biển )
( Tác phẩm đạt giải Khuyến khích cuộc thi viết ký và Truyện ngắn năm 2014-2015 của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Hải Phòng - Tạp chí Cửa Biển )
Chỉnh sửa lần cuối: