1.
Chuyện kể rằng, ở một vùng quê nọ có một người phụ nữ sinh được hai cô con gái, khi cô con gái lớn mười lăm tuổi và cô con gái thứ hai tròn mười ba tuổi thì chồng bà không may qua đời vì căn bệnh hiểm nghèo.
Bà không đi bước nữa, nhưng để có thêm tiền trang trải cuộc sống gia đình và lo học phí cho con, bà thường làm quen với những người đàn ông đã từng trải, có điều kiện kinh tế. Bà không để tâm đến việc người đó đã có gia đình, vợ con hay chưa. Thậm chí, khi bà biết rõ họ đang ràng buộc với một người phụ nữ khác, bà vẫn tặc lưỡi mặc kệ tất cả. Bà cứ nghĩ rằng không ai biết, nhưng thực ra tất cả mọi người đều biết. Bà, đã hủy hoại hạnh phúc của nhiều gia đình.
Đứa con gái lớn của bà biết mọi chuyện. Và đứa con gái nhỏ của bà, bằng cách này hay cách khác, cũng không thể nào không biết. Thay vì gặp trực tiếp bà, vợ của những người đàn ông kia thường chọn tấn công con gái bà, bằng cách chọn thời điểm bà vắng nhà để gọi điện hoặc gửi thư đến, kể cho chúng nghe tất cả những tội lỗi mà mẹ chúng đã gây ra với gia đình họ, Và họ còn tha thiết xin hai cô con gái hãy cản chân bà mẹ lại, vì họ không còn tìm được bất cứ cách nào để níu giữ người đàn ông đang không muốn quay đầu kia.
Hai cô con gái lớn lên bằng việc nghe rất nhiều những lời lẽ không hay về mẹ. Cô chị có vẻ hiểu và cảm thông hơn, và dù không đồng ý nhưng cô vẫn thường nhắm mắt cho qua. Nhưng cô em thì khác, cô phản ứng gay gắt với tất cả những người đàn ông lấy danh nghĩa bạn bè, đồng nghiệp của mẹ cô để tới nhà cô chơi, cô cũng không nhận bất cứ đồng tiền hay món quà nào mà họ mua cho cô. Và cô bị mẹ giận. Cứ mỗi lần có đàn ông tới nhà chơi cô lại tỏ ra hằn học, và mẹ cô chắc chắn không hài lòng về thái độ đấy. Thế rồi cô và mẹ cãi nhau, cô chạy ra khỏi nhà.
Nhưng mười ba tuổi, cô không có đủ dũng cảm để tự bươn chải cuộc sống một mình. Sau mỗi lần tìm một chỗ kín đáo khóc chán khóc chê, cô lại lò dò về nhà, trùm kín chăn vào đầu và khóc tiếp.
Một hôm, khi cô đang tắm, có một người đàn ông đột nhiên mở cánh cửa nhà tắm. Cô hét lên và giựt tay đóng lại. Sau khi mặc quần áo, cô ra ngoài và hỏi người đàn ông đó với thái độ khó chịu: “Tại sao chú làm thế?” Người đàn ông tỏ ra vô tội và bảo: “Chú không biết có người bên trong”. Cô lườm ông ta, thừa biết ông ta đang giảo biện. Còn mẹ cô thì nói: “Chú vô ý, có gì to tát đâu.” Và cô lại giận, lại bỏ đi khỏi nhà.
Cô từng nghĩ, cô không ích kỷ đến mức không muốn mẹ tìm một chỗ dựa mới. Chỉ cần đó là một người đàn ông tử tế và độc thân, nhất định cô sẽ gật đầu đồng ý.
Nhưng đàn ông tử tế và độc thân, liệu họ có chọn một người như mẹ cô?
2.
Khi hai chị em cô vào đại học, gánh nặng tài chính đặt lên vai mẹ cô mỗi lúc một nhiều thêm. Mẹ cô không dám ăn dám tiêu, toàn bộ tiền lương kiếm được mỗi tháng đều gửi để chị em cô chi trả tiền thuê trọ, tiền ăn, tiền học phí,... và rất nhiều những khoản linh tinh khác. Chỉ cần là những khoản chi tiêu hợp lý, mẹ cô đều cố gắng để đáp ứng cho hai chị em. Rồi sau đó lại là những khoản chi lớn khác: Xin việc cho cô chị, mua xe cho cô em,... Đó đều là những khoản tiền vắt kiệt sức lao động của bà. Nhưng để con cái không phải tủi thân vì thua kém bạn bè, bà vẫn không ngừng cố gắng, sự cố gắng của bà không loại trừ việc tìm kiếm sự hỗ trợ của một vài người đàn ông khác, và tất nhiên, họ đều đã có gia đình.
Khi trưởng thành, cô em gái không còn phản ứng gay gắt như trước nữa. Cô bắt đầu có cách hành xử giống với cô chị, nhắm mắt, tỏ ra thờ ơ, dù trong lòng cô vẫn vô cùng khó chịu. Có một lần về quê, cô đã hỏi mẹ: “Sao mẹ phải làm vậy?” Mẹ cô dịu dàng trấn an cô: “Mẹ làm thân để mẹ kiếm tiền?” Cô thấy xé ruột xé gan.
Cô vẫn muốn học đại học, muốn mua laptop, muốn đi xe máy, muốn có chiếc váy xinh cho bằng bạn bằng bè,... Nhưng cô chẳng bao giờ tự hỏi, tiền mẹ cô lấy ở đâu ra? Cô vẫn muốn có tất cả những thứ đó để thỏa mãn cá nhân, nhưng lại luôn chỉ trích lối sống dễ dãi của mẹ.
Dần dần, cô bắt đầu không đỏi hỏi mẹ cô nữa. Cô cố gắng học hành chăm chỉ, tốt nghiệp loại giỏi để mẹ cô thấy vui lòng. Khi cô ra trường, mẹ cô cũng dần già đi. Mấy lần gọi điện về nhà đều thấy mẹ bảo đang ốm, cô quyết định rời thành phố, về quê tìm việc.
Về quê xin việc vốn không phải dễ dàng, lại là vùng nông thôn. Thời gian đầu cô phải đi đi về về gần hai mươi cây số. Sau đó cô quyết định thi vào Nhà nước. Mẹ cô lo lót chạy chọt, nhưng cô kiên quyết: “Nếu mẹ chạy tiền, có thi đậu con cũng không vào làm.” Mẹ cô đã dành cả thanh xuân để lo lắng cho hai chị em cô, cô không muốn bà dành phần đời còn lại nai lưng trả nợ khoản tiền bỏ ra xin việc cho cô nữa.
Đợt thi năm ấy, cô may mắn trúng tuyển. Khỏi phải nói mẹ cô đã vui mừng cỡ nào.
Bà đi khắp nơi khoe khoang con gái bà giỏi giang ra sao, tốt nghiệp Đại học loại giỏi, không tốn một đồng chạy chọt mà vẫn thi được vào Nhà nước. Giờ đã được về làm việc ngay gần nhà.
Bà bảo cô, công việc ổn định rồi, lấy chồng đi thôi.
Cô tìm một người đàn ông hiền lành, công việc ổn định, cách nhà cô không xa. Mẹ cô rất hài lòng về chàng rể này. Cô không yêu người ấy lắm, nhưng cô vốn dĩ chưa từng yêu ai sâu đậm, chỉ cần không có ấn tượng xấu ban đầu, cô tin có thể sống hòa hợp với nhau cả đời.
Ngày cô lấy chồng, mẹ ngỏ ý muốn mua cho cô nhiều thứ. Nhưng cô bảo cô chẳng cần gì. Tiền mừng đám cưới của bạn bè, đồng nghiệp cô đều để mẹ giữ hết, cô bảo: “Con chẳng đưa được đồng nào để mẹ lo đám cưới, mẹ cứ cầm lấy mà trả tiền phông rạp, cỗ bàn”.
3.
Sau khi lấy chồng, buổi trưa đi làm cô vẫn thường hay ghé vào ăn cơm cùng mẹ. Lúc này mẹ cô chẳng còn phải lo toan cho hai chị em cô, đồng lương của bà đủ để bà sống một cuộc sống thoải mái, sung túc. Nhưng bà vẫn có một thói quen khó bỏ, đó là bệnh "tiếc của". Có lẽ vì ảnh hưởng bởi cuộc sống thiếu thốn, nghèo khổ ngày xưa, bà thường không vứt đi những thứ đồ mà đáng lẽ ra chúng không nên được sử dụng nữa. Đồng lương công chức Nhà nước của cô không được bao nhiêu, không đủ để mua sắm nhiều thứ cho cả nhà mẹ đẻ lẫn nhà chồng. Nên cô thường bảo mẹ: "Cái gì không dùng nữa thì mẹ vứt đi". Mẹ cô lại bảo: "Cứ để đấy, cũng chẳng ảnh hưởng gì".
Mẹ cô dễ tự ái, lại thường hay suy nghĩ. Vậy nên cô cũng không dám cằn nhằn nhiều. Dần dần, cô mặc kệ, để mẹ thích làm gì thì làm.
Thực phẩm bà thường mua rất nhiều, để dành trong tủ lạnh, nấu một lần ăn hai ba bữa, thậm chí là cả tuần,...
Ai cho gì, dù thích hay không, cần hay không, có dùng đến hay không,... bà đều mang về hết.
Hộp nhựa đựng đồ dùng, mỹ phẩm,... vứt đi thì tiếc, bà tận dụng đựng đồ ăn cất trong tủ lạnh...
Thời gian cứ trôi như vậy. Những gì mà người mẹ cho rằng tốt nhất đều sẽ mua để dành cho con, còn cô con gái, vì không muốn làm mẹ buồn, cũng không dám nói, cứ vậy mà đón nhận...
4.
Bà mẹ thắp ba que nhang lên bàn thờ, trên đó có hai tấm di ảnh, một của chồng bà, tấm còn lại... là của cô còn gái, chỉ mới vừa tròn hai mươi bảy tuổi.
Chuyện kể rằng, ở một vùng quê nọ có một người phụ nữ sinh được hai cô con gái, khi cô con gái lớn mười lăm tuổi và cô con gái thứ hai tròn mười ba tuổi thì chồng bà không may qua đời vì căn bệnh hiểm nghèo.
Bà không đi bước nữa, nhưng để có thêm tiền trang trải cuộc sống gia đình và lo học phí cho con, bà thường làm quen với những người đàn ông đã từng trải, có điều kiện kinh tế. Bà không để tâm đến việc người đó đã có gia đình, vợ con hay chưa. Thậm chí, khi bà biết rõ họ đang ràng buộc với một người phụ nữ khác, bà vẫn tặc lưỡi mặc kệ tất cả. Bà cứ nghĩ rằng không ai biết, nhưng thực ra tất cả mọi người đều biết. Bà, đã hủy hoại hạnh phúc của nhiều gia đình.
Đứa con gái lớn của bà biết mọi chuyện. Và đứa con gái nhỏ của bà, bằng cách này hay cách khác, cũng không thể nào không biết. Thay vì gặp trực tiếp bà, vợ của những người đàn ông kia thường chọn tấn công con gái bà, bằng cách chọn thời điểm bà vắng nhà để gọi điện hoặc gửi thư đến, kể cho chúng nghe tất cả những tội lỗi mà mẹ chúng đã gây ra với gia đình họ, Và họ còn tha thiết xin hai cô con gái hãy cản chân bà mẹ lại, vì họ không còn tìm được bất cứ cách nào để níu giữ người đàn ông đang không muốn quay đầu kia.
Hai cô con gái lớn lên bằng việc nghe rất nhiều những lời lẽ không hay về mẹ. Cô chị có vẻ hiểu và cảm thông hơn, và dù không đồng ý nhưng cô vẫn thường nhắm mắt cho qua. Nhưng cô em thì khác, cô phản ứng gay gắt với tất cả những người đàn ông lấy danh nghĩa bạn bè, đồng nghiệp của mẹ cô để tới nhà cô chơi, cô cũng không nhận bất cứ đồng tiền hay món quà nào mà họ mua cho cô. Và cô bị mẹ giận. Cứ mỗi lần có đàn ông tới nhà chơi cô lại tỏ ra hằn học, và mẹ cô chắc chắn không hài lòng về thái độ đấy. Thế rồi cô và mẹ cãi nhau, cô chạy ra khỏi nhà.
Nhưng mười ba tuổi, cô không có đủ dũng cảm để tự bươn chải cuộc sống một mình. Sau mỗi lần tìm một chỗ kín đáo khóc chán khóc chê, cô lại lò dò về nhà, trùm kín chăn vào đầu và khóc tiếp.
Một hôm, khi cô đang tắm, có một người đàn ông đột nhiên mở cánh cửa nhà tắm. Cô hét lên và giựt tay đóng lại. Sau khi mặc quần áo, cô ra ngoài và hỏi người đàn ông đó với thái độ khó chịu: “Tại sao chú làm thế?” Người đàn ông tỏ ra vô tội và bảo: “Chú không biết có người bên trong”. Cô lườm ông ta, thừa biết ông ta đang giảo biện. Còn mẹ cô thì nói: “Chú vô ý, có gì to tát đâu.” Và cô lại giận, lại bỏ đi khỏi nhà.
Cô từng nghĩ, cô không ích kỷ đến mức không muốn mẹ tìm một chỗ dựa mới. Chỉ cần đó là một người đàn ông tử tế và độc thân, nhất định cô sẽ gật đầu đồng ý.
Nhưng đàn ông tử tế và độc thân, liệu họ có chọn một người như mẹ cô?
2.
Khi hai chị em cô vào đại học, gánh nặng tài chính đặt lên vai mẹ cô mỗi lúc một nhiều thêm. Mẹ cô không dám ăn dám tiêu, toàn bộ tiền lương kiếm được mỗi tháng đều gửi để chị em cô chi trả tiền thuê trọ, tiền ăn, tiền học phí,... và rất nhiều những khoản linh tinh khác. Chỉ cần là những khoản chi tiêu hợp lý, mẹ cô đều cố gắng để đáp ứng cho hai chị em. Rồi sau đó lại là những khoản chi lớn khác: Xin việc cho cô chị, mua xe cho cô em,... Đó đều là những khoản tiền vắt kiệt sức lao động của bà. Nhưng để con cái không phải tủi thân vì thua kém bạn bè, bà vẫn không ngừng cố gắng, sự cố gắng của bà không loại trừ việc tìm kiếm sự hỗ trợ của một vài người đàn ông khác, và tất nhiên, họ đều đã có gia đình.
Khi trưởng thành, cô em gái không còn phản ứng gay gắt như trước nữa. Cô bắt đầu có cách hành xử giống với cô chị, nhắm mắt, tỏ ra thờ ơ, dù trong lòng cô vẫn vô cùng khó chịu. Có một lần về quê, cô đã hỏi mẹ: “Sao mẹ phải làm vậy?” Mẹ cô dịu dàng trấn an cô: “Mẹ làm thân để mẹ kiếm tiền?” Cô thấy xé ruột xé gan.
Cô vẫn muốn học đại học, muốn mua laptop, muốn đi xe máy, muốn có chiếc váy xinh cho bằng bạn bằng bè,... Nhưng cô chẳng bao giờ tự hỏi, tiền mẹ cô lấy ở đâu ra? Cô vẫn muốn có tất cả những thứ đó để thỏa mãn cá nhân, nhưng lại luôn chỉ trích lối sống dễ dãi của mẹ.
Dần dần, cô bắt đầu không đỏi hỏi mẹ cô nữa. Cô cố gắng học hành chăm chỉ, tốt nghiệp loại giỏi để mẹ cô thấy vui lòng. Khi cô ra trường, mẹ cô cũng dần già đi. Mấy lần gọi điện về nhà đều thấy mẹ bảo đang ốm, cô quyết định rời thành phố, về quê tìm việc.
Về quê xin việc vốn không phải dễ dàng, lại là vùng nông thôn. Thời gian đầu cô phải đi đi về về gần hai mươi cây số. Sau đó cô quyết định thi vào Nhà nước. Mẹ cô lo lót chạy chọt, nhưng cô kiên quyết: “Nếu mẹ chạy tiền, có thi đậu con cũng không vào làm.” Mẹ cô đã dành cả thanh xuân để lo lắng cho hai chị em cô, cô không muốn bà dành phần đời còn lại nai lưng trả nợ khoản tiền bỏ ra xin việc cho cô nữa.
Đợt thi năm ấy, cô may mắn trúng tuyển. Khỏi phải nói mẹ cô đã vui mừng cỡ nào.
Bà đi khắp nơi khoe khoang con gái bà giỏi giang ra sao, tốt nghiệp Đại học loại giỏi, không tốn một đồng chạy chọt mà vẫn thi được vào Nhà nước. Giờ đã được về làm việc ngay gần nhà.
Bà bảo cô, công việc ổn định rồi, lấy chồng đi thôi.
Cô tìm một người đàn ông hiền lành, công việc ổn định, cách nhà cô không xa. Mẹ cô rất hài lòng về chàng rể này. Cô không yêu người ấy lắm, nhưng cô vốn dĩ chưa từng yêu ai sâu đậm, chỉ cần không có ấn tượng xấu ban đầu, cô tin có thể sống hòa hợp với nhau cả đời.
Ngày cô lấy chồng, mẹ ngỏ ý muốn mua cho cô nhiều thứ. Nhưng cô bảo cô chẳng cần gì. Tiền mừng đám cưới của bạn bè, đồng nghiệp cô đều để mẹ giữ hết, cô bảo: “Con chẳng đưa được đồng nào để mẹ lo đám cưới, mẹ cứ cầm lấy mà trả tiền phông rạp, cỗ bàn”.
3.
Sau khi lấy chồng, buổi trưa đi làm cô vẫn thường hay ghé vào ăn cơm cùng mẹ. Lúc này mẹ cô chẳng còn phải lo toan cho hai chị em cô, đồng lương của bà đủ để bà sống một cuộc sống thoải mái, sung túc. Nhưng bà vẫn có một thói quen khó bỏ, đó là bệnh "tiếc của". Có lẽ vì ảnh hưởng bởi cuộc sống thiếu thốn, nghèo khổ ngày xưa, bà thường không vứt đi những thứ đồ mà đáng lẽ ra chúng không nên được sử dụng nữa. Đồng lương công chức Nhà nước của cô không được bao nhiêu, không đủ để mua sắm nhiều thứ cho cả nhà mẹ đẻ lẫn nhà chồng. Nên cô thường bảo mẹ: "Cái gì không dùng nữa thì mẹ vứt đi". Mẹ cô lại bảo: "Cứ để đấy, cũng chẳng ảnh hưởng gì".
Mẹ cô dễ tự ái, lại thường hay suy nghĩ. Vậy nên cô cũng không dám cằn nhằn nhiều. Dần dần, cô mặc kệ, để mẹ thích làm gì thì làm.
Thực phẩm bà thường mua rất nhiều, để dành trong tủ lạnh, nấu một lần ăn hai ba bữa, thậm chí là cả tuần,...
Ai cho gì, dù thích hay không, cần hay không, có dùng đến hay không,... bà đều mang về hết.
Hộp nhựa đựng đồ dùng, mỹ phẩm,... vứt đi thì tiếc, bà tận dụng đựng đồ ăn cất trong tủ lạnh...
Thời gian cứ trôi như vậy. Những gì mà người mẹ cho rằng tốt nhất đều sẽ mua để dành cho con, còn cô con gái, vì không muốn làm mẹ buồn, cũng không dám nói, cứ vậy mà đón nhận...
4.
Bà mẹ thắp ba que nhang lên bàn thờ, trên đó có hai tấm di ảnh, một của chồng bà, tấm còn lại... là của cô còn gái, chỉ mới vừa tròn hai mươi bảy tuổi.